Flow (Dòng Chảy) - Mihaly Csikszentmihalyi - Chương 4
- Home
- Flow (Dòng Chảy) - Mihaly Csikszentmihalyi
- Chương 4 - Những điều kiện của trạng thái dòng chảy
Chúng ta đã thấy cách người ta mô tả những đặc tính phổ thông của trải nghiệm tối ưu: một cảm giác rằng kỹ năng của người đó là tương xứng để đương đầu với thử thách đang đối mặt, trong một hệ thống hành động có mục đích, có quy luật ràng buộc mà sẽ cung cấp những đầu mối rõ ràng về việc người đó thể hiện tốt như thế nào. Sự tập trung là cao độ đến mức không còn sự chú ý để nghĩ về những việc không liên quan, hay để trăn trở về những vấn đề khác nữa. Ý thức về cái tôi biến mất và cảm giác về thời gian bị bóp méo. Một hành động sản sinh ra những trải nghiệm như vậy khiến người ta hài lòng đến nỗi họ sẵn lòng thực hiện nó vì chính bản thân hành động, với rất ít bận tâm về những gì họ sẽ đạt được từ đó, ngay cả khi hành động có khó khăn hay nguy hiểm đi nữa.
Nhưng những trải nghiệm như vậy diễn ra như thế nào? Thỉnh thoảng trạng thái dòng chảy có thể xuất hiện ngẫu nhiên, nhờ một sự trùng hợp may mắn của những điều kiện bên trong và bên ngoài. Chẳng hạn như, có thể một nhóm bạn dùng bữa tối cùng nhau và một người nào đó gợi lên một chủ đề liên quan đến mọi người trong cuộc đối thoại. Lần lượt từng người một bắt đầu nói đùa và kể những câu chuyện, chẳng bao lâu mọi người đều vui vẻ và cảm thấy tốt về những người khác. Trong khi những sự kiện như vậy có thể diễn ra tự phát, thì nhiều khả năng là trạng thái dòng chảy sẽ được tạo ra từ một hành động có cấu trúc, hoặc từ năng lực làm xuất hiện dòng chảy của một cá nhân, hoặc cả hai.
Tại sao chơi một trò chơi lại thú vị, trong khi những thứ mà chúng ta phải làm mỗi ngày, như làm việc hay quẩn quanh ở nhà, lại thường khiến chúng ta cảm thấy chán chường? Và, tại sao một người có thể thưởng thức niềm vui ngay trong một trại tập trung, trong khi một người khác lại cứ bần thần khi nghỉ mát tại một khu nghỉ dưỡng sang trọng? Trả lời được những câu hỏi này sẽ giúp bạn dễ dàng hơn trong việc hiểu được trải nghiệm có thể được định hình để cải thiện chất lượng cuộc sống ra sao. Chương này sẽ khám phá những hoạt động đặc biệt có khả năng tạo ra những trải nghiệm tối ưu và những đặc tính cá nhân giúp con người có được trạng thái dòng chảy một cách dễ dàng.
NHỮNG HOẠT ĐỘNG DÒNG CHẢY
Khi mô tả trải nghiệm tối ưu trong quyển sách này, chúng tôi đã đưa ra những ví dụ là các hoạt động như soạn nhạc, leo núi, nhảy múa, chèo thuyền, chơi cờ, vân vân. Điều làm cho những hoạt động này dẫn đến trạng thái dòng chảy, chính là chúng được thiết kế để khiến trải nghiệm tối ưu dễ dàng đạt được hơn. Chúng có những quy luật đòi hỏi việc học các kỹ năng, chúng thiết lập các mục tiêu, chúng đưa ra các phản hồi, chúng làm cho sự kiểm soát trở nên khả thi. Chúng tạo điều kiện thuận lợi cho sự tập trung và dùng hết tâm trí bằng cách tạo ra hành động càng tách biệt khỏi cái gọi là “hiện thực tối cao” của cuộc sống mỗi ngày càng tốt. Chẳng hạn, trong mỗi bộ môn thể thao người tham gia đều vận những bộ đồng phục bắt mắt và đi vào những khu vực đặc biệt tạm thời tách họ khỏi những người bình thường. Trong suốt sự kiện, người thi đấu và khán giả ngừng hành động theo suy nghĩ thông thường mà thay vào đó tập trung vào thực tế riêng biệt của trò chơi.
Những hoạt động dòng chảy như vậy có chức năng cốt yếu là cung cấp những trải nghiệm mang tính thưởng thức. Kịch, nghệ thuật, những buổi trình diễn hào nhoáng, lễ nghi và thể thao là một vài ví dụ điển hình. Nhờ vào cách mà chúng được cấu trúc, chúng giúp người tham gia và khán giả đạt được một trạng thái tinh thần phấn khởi cao độ.
Roger Caillois, nhà nhân chủng – tâm lý học người Pháp, đã chia những trò chơi của thế giới (từ “trò chơi” được dùng với ngữ nghĩa rộng nhất để bao hàm mọi hình thức hoạt động giải trí) thành bốn loại rõ ràng, tùy thuộc vào kiểu trải nghiệm mà chúng cung cấp. Agon (tính luận chiến) bao gồm những trò chơi có bản chất là tính cạnh tranh, như hầu hết các môn thể thao và sự kiện thuộc về thể thao; alea (may rủi) là loại bao gồm tất cả những trò chơi mang tính may rủi, từ xúc xắc cho đến bingo; ilinx, còn gọi là vertigo (cảm giác mất thăng bằng) là cái tên ông đặt ra cho những hoạt động làm thay đổi ý thức bằng cách tạo ra sự xáo trộn trong nhận thức thông thường, chẳng hạn như chơi đu quay hoặc nhảy dù; và mimicry (sự bắt chước) là một nhóm các hoạt động mà ở đó những thực tại thay thế được tạo ra, như nhảy múa, sân khấu và nghệ thuật nói chung.
Với cách phân loại này, có thể nói rằng các trò chơi tạo cơ hội để vượt lên trên những giới hạn của trải nghiệm thông thường theo bốn cách khác nhau. Trong những trò chơi mang tính luận chiến (agon), người chơi phải nâng cao kỹ năng của mình để đương đầu với những thách thức được đưa ra bởi kỹ năng của đối thủ. Nguồn gốc của từ “compete” (cạnh tranh) là từ La–tinh con petire, có nghĩa là “cùng nhau tìm kiếm”. Điều mà mỗi người tìm kiếm chính là hiện thực hóa tiềm năng của chính mình và nhiệm vụ này sẽ trở nên dễ dàng hơn khi người khác buộc chúng ta phải thể hiện hết sức. Đương nhiên, sự cạnh tranh chỉ cải thiện được trải nghiệm khi phần lớn sự chú ý được đặt vào bản thân của hoạt động. Nếu những mục tiêu ngoại tại – như là đánh bại đối thủ, muốn tạo ấn tượng với khán giả, hay có được bản hợp đồng chuyên nghiệp giá trị lớn – là những gì mà người đó quan tâm thì sự cạnh tranh gần như sẽ trở thành một sự phân tâm hơn là sự thúc đẩy để tập trung ý thức vào những gì đang diễn ra.
Những trò chơi mang tính may rủi (alea) thì thú vị hơn vì chúng cho chúng ta sự ảo tưởng về việc kiểm soát tương lai không đoán trước được. Thổ dân châu Mỹ xáo trộn những đoạn xương sườn trâu được đánh dấu để dự đoán trước kết quả của cuộc đi săn tiếp theo, người Trung Quốc diễn dịch hình dáng mà những thẻ gỗ rơi xuống và bộ tộc Ashanti ở miền Đông châu Phi đọc được tương lai thông qua cách mà những con gà hiến tế của họ chết. Tiên tri là một đặc trưng chung của văn hóa, là một sự nỗ lực để vượt ra khỏi những ràng buộc của hiện tại và có cái nhìn thoáng qua về những gì sẽ xảy ra. Những trò chơi may rủi gợi đến những nhu cầu giống nhau. Những khúc xương sườn trâu trở thành trò chơi xúc xắc, những que gỗ của bói Kinh Dịch trở thành trò đánh bài và nghi lễ tiên tri trở thành một trò cờ bạc – một hoạt động trần tục mà trong đó con người cố gắng khôn ngoan hơn người khác hoặc cố chiến thắng số phận.
Cảm giác mất thăng bằng (vertigo) là cách trực tiếp nhất để thay đổi ý thức. Những đứa trẻ yêu thích trò xoay người đến khi choáng váng và điệu nhảy xoay tròn của những người theo đạo Hồi ở Trung Đông đều đi vào trạng thái xuất thần thông qua những phương thức giống nhau. Bất kỳ hoạt động nào chuyển đổi cách chúng ta lĩnh hội hiện thực đều mang tính thưởng thức và là một thực tế giải thích cho sự thu hút của nhiều loại chất kích thích “mở rộng ý thức”, từ nấm ma thuật đến chất cồn cho đến “chiếc hộp Pandora của thời hiện đại” là chất hóa học gây ảo giác. Nhưng ý thức không thể được mở rộng; tất cả những gì chúng ta có thể làm là xáo trộn nội dung của nó, điều mà sẽ khiến chúng ta có cảm giác rằng nó đã được mở rộng theo kiểu nào đó. Tuy nhiên, cái giá của hầu hết những biến đổi xảy ra một cách gượng ép chính là chúng ta sẽ mất kiểm soát ở chính ngay phần ý thức mà chúng ta lẽ ra nên mở rộng.
Sự bắt chước (mimicry) khiến chúng ta cảm giác như mình vượt trội hơn so với con người thật của mình thông qua ảo tưởng, kỳ vọng và sự che đậy. Tổ tiên của chúng ta khi đeo mặt nạ những vị thần và nhảy múa đã cảm nhận được sự đồng nhất mạnh mẽ với sức mạnh thống trị vũ trụ. Bằng việc hóa trang thành một con nai, vũ công người Yaqui da đỏ bản địa cảm thấy anh ta và linh hồn của con vật mà anh đang hóa thân như hợp thành một thể. Cô ca sĩ hòa giọng hát của mình trong sự hòa âm với dàn hợp xướng cảm nhận cơn rùng mình chạy dọc sống lưng khi cảm thấy mình hòa làm một với âm thanh tuyệt đẹp mà cô góp phần tạo ra. Một cô bé chơi đùa với búp bê của mình và anh trai của em đóng vai một cao bồi cũng nới rộng những giới hạn trải nghiệm thông thường của chúng, để chúng tạm thời trở thành một ai khác, mạnh mẽ hơn – đồng thời cũng giúp chúng hiểu vai trò của người lớn theo giới tính trong xã hội của mình.
Trong những nghiên cứu của mình, chúng tôi nhận thấy rằng mỗi một hoạt động dòng chảy, dù có liên quan đến sự cạnh tranh, may rủi hay bất kỳ dạng thức trải nghiệm nào khác, đều thường có điểm chung này: Nó cho ta cảm giác của sự khám phá, một cảm giác đầy sáng tạo của việc đưa một người vào hiện thực mới. Nó thúc đẩy người đó đến cấp độ trình diễn cao hơn và dẫn đến trạng thái ý thức mà trước đó không ngờ tới được. Nói tóm lại, nó biến đổi cái tôi bằng cách khiến cái tôi phức tạp hơn. Và trong sự trưởng thành này của cái tôi có chứa đựng chìa khóa dẫn đến những hoạt động dòng chảy.
Một biểu đồ đơn giản có thể giúp giải thích tại sao điều này xảy ra. Chúng ta cứ giả định rằng hình ảnh bên dưới đại diện cho một hoạt động cụ thể – ví dụ như trò chơi quần vợt. Hai khía cạnh quan trọng nhất của trải nghiệm về mặt lý thuyết, những thử thách và kỹ năng, được thể hiện trên hai hệ trục của biểu đồ. Chữ cái A đại diện cho Alex, một cậu bé đang tập chơi quần vợt. Biểu đồ thể hiện Alex tại bốn thời điểm khác nhau. Khi cậu bé lần đầu chơi (A1), Alex thực tế không hề có kỹ năng nào và thử thách duy nhất cậu bé phải đương đầu là phát bóng qua lưới. Đây không phải là kỹ thuật quá khó nhưng Alex có thể thích nó vì độ khó phù hợp với những kỹ năng còn thô sơ của cậu. Vì vậy ở điểm thời gian này, cậu bé sẽ có thể ở trong trạng thái dòng chảy. Nhưng cậu bé không thể ở trong trạng thái đó lâu. Sau một lúc, nếu cậu kiên trì luyện tập, những kỹ năng của cậu chắc chắn sẽ được cải thiện và cậu bắt đầu thấy chán khi chỉ đánh bóng qua lưới (A2). Hoặc cũng có thể rằng cậu gặp được một đối thủ đã luyện tập nhiều hơn, mà trong tình huống này cậu sẽ nhận ra rằng có nhiều thử thách khó hơn cho mình thay vì chỉ phát bóng bổng – lúc này cậu sẽ cảm thấy có chút lo lắng (A3) về khả năng yếu kém của mình.
Tại sao sự phức tạp của ý thức lại gia tăng như một kết quả của các trải nghiệm dòng chảy
Sự buồn chán và lo lắng đều không phải là những trải nghiệm tích cực, vậy nên Alex sẽ được thúc đẩy để trở lại trạng thái dòng chảy. Cậu làm điều đó như thế nào? Nhìn lại biểu đồ, chúng ta thấy rằng nếu cậu thấy chán (A2) và mong muốn được ở trong dòng chảy lần nữa, về cơ bản Alex có duy nhất một lựa chọn: gia tăng thử thách cậu đang đối mặt. (Cậu cũng có một lựa chọn thứ hai, là triệt để từ bỏ môn quần vợt và trong trường hợp này A đơn giản là sẽ biến mất khỏi biểu đồ). Bằng việc đề ra một mục tiêu mới khó hơn, phù hợp với kỹ năng của mình – chẳng hạn như đánh bại một đối thủ giỏi hơn cậu một chút – Alex sẽ trở lại trạng thái dòng chảy (A4).
Nếu Alex lo lắng (A3), con đường để quay trở lại trạng thái dòng chảy đòi hỏi cậu phải nâng cao những kỹ năng của mình. Về mặt lý thuyết cậu cũng có thể giảm những thử thách mình đang đối mặt và rồi quay trở lại trạng thái dòng chảy nơi mà cậu đã bắt đầu (ở A1), nhưng trên thực tế, rất khó để phớt lờ những thử thách một khi người ta đã nhận thức được chúng đang tồn tại.
Biểu đồ cho thấy rằng cả A1 và A4 tượng trưng cho những trường hợp mà ở đó, Alex đang trong dòng chảy. Mặc dù cả hai đều mang tính thưởng thức như nhau nhưng chúng khá khác biệt khi A4 là trải nghiệm phức tạp hơn A1. Nó phức tạp hơn là bởi vì nó bao hàm những thử thách khó khăn hơn và đòi hỏi những kỹ năng cao hơn từ người chơi.
Mặc dù phức tạp và thú vị, nhưng A4 vẫn không tượng trưng cho một trường hợp ổn định. Khi Alex tiếp tục chơi, cậu sẽ trở nên buồn chán bởi những cơ hội đã cũ mà cậu tìm thấy ở cấp độ đó, hoặc cậu sẽ trở nên lo lắng và nản lòng vì khả năng tương đối yếu kém của mình. Vậy là động lực tận hưởng trò chơi sẽ lần nữa thúc đẩy cậu trở về dòng chảy, nhưng giờ là ở một mức độ phức tạp thậm chí còn cao hơn A4.
Chính đặc tính thuộc động lực học này lý giải tại sao các hoạt động dòng chảy đều dẫn đến sự phát triển và khám phá. Người ta không thể thích làm cùng một việc, với cùng một cấp độ, trong một thời gian dài. Chúng ta sẽ dần cảm thấy chán hoặc nản chí; và khi đó khát khao được tận hưởng thú vui một lần nữa sẽ thúc đẩy chúng ta nâng cao những kỹ năng của mình, hoặc khám phá những cơ hội mới để sử dụng chúng.
Tuy nhiên, quan trọng là không rơi vào ngụy biện cứng nhắc và cho rằng, chỉ vì một người dính líu một cách khách quan với một hoạt động dòng chảy, nghĩa là cô ấy nhất thiết có trải nghiệm thích đáng. Không chỉ những thử thách “thật” xuất hiện theo hoàn cảnh là đáng kể, mà những thử thách do người tham gia nhận thức được cũng vậy. Không phải những kỹ năng chúng ta thật sự có quyết định chúng ta cảm thấy như thế nào, mà là những kỹ năng chúng ta nghĩ rằng mình có mới làm được điều đó. Người này có thể hưởng ứng thử thách của việc chinh phục một đỉnh núi nhưng cứ thờ ơ với cơ hội được học nhạc; người khác có thể chộp ngay lấy cơ hội học nhạc và phớt lờ ngọn núi. Việc chúng ta cảm thấy như thế nào tại một thời điểm xác định của một hoạt động dòng chảy chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những điều kiện khách quan; nhưng ý thức vẫn tự do đi theo đánh giá của riêng của nó về sự việc đang diễn ra. Quy luật của những trò chơi là nhằm mục đích điều hướng năng lượng tinh thần trong những mô hình mang tính thưởng thức, nhưng chúng có thực hiện được như vậy hay không thì cuối cùng vẫn tùy thuộc vào chính chúng ta. Một vận động viên chuyên nghiệp có thể “chơi” bóng đá mà không có bất kỳ yếu tố nào của trạng thái dòng chảy xuất hiện: anh ta có thể thấy chán, lúng túng, chỉ quan tâm về giá trị bản hợp đồng hơn là bản thân trò chơi. Và chiều ngược lại thậm chí còn có khả năng cao hơn – là một người sẽ say mê thưởng thức những hoạt động mà ban đầu vốn nhắm đến những mục đích khác. Đối với nhiều người, những hoạt động như làm việc hay nuôi dạy trẻ cung cấp nhiều trạng thái dòng chảy hơn là chơi một trò chơi hay vẽ một bức tranh, bởi vì những cá nhân này đã học cách nhận thấy cơ hội trong những việc thế tục như vậy trong khi những người khác không nhìn thấy được.
Trong suốt quá trình tiến hóa của loài người, mỗi nền văn hóa đã phát triển những hoạt động được xây dựng chủ yếu để cải thiện chất lượng của trải nghiệm. Ngay cả những xã hội công nghệ kỹ thuật kém tiên tiến nhất cũng có một vài loại hình nghệ thuật, âm nhạc, nhảy múa và nhiều trò chơi đa dạng mà trẻ con và người lớn đều có thể chơi. Có những thổ dân ở New Guinea dành thời gian vào rừng tìm kiếm những bộ lông vũ đầy màu sắc dùng để trang trí cho những điệu nhảy trong nghi thức tôn giáo của họ nhiều hơn là thời gian tìm thức ăn. Và điều này chẳng phải ví dụ hiếm có gì, bởi: nghệ thuật, kịch nghệ và nghi thức hẳn chiếm nhiều thời gian và năng lượng hơn là làm việc, trong hầu hết các nền văn hóa.
Trong khi những hoạt động này có thể đồng thời phục vụ cho những mục đích khác, thì thực tế là việc chúng mang lại sự thưởng thức là nguyên nhân chính mà chúng còn tồn tại. Con người bắt đầu trang trí các hang động ít nhất là từ ba mươi ngàn năm về trước. Những bức tranh rõ ràng đều có những ý nghĩa về mặt tôn giáo và thực tiễn. Tuy nhiên, cũng có khả năng rằng lý do chính để tồn tại của nghệ thuật trong thời kỳ đồ đá cũ cũng giống như bây giờ – ấy là, nó là khởi nguồn của trạng thái dòng chảy cho cả họa sĩ và người xem.
Thực tế, dòng chảy và tôn giáo đã liên kết một cách mật thiết từ những thời đại sơ khai. Nhiều trải nghiệm tối ưu của nhân loại đã diễn ra trong bối cảnh của những nghi thức tôn giáo. Không chỉ nghệ thuật mà cả kịch nghệ, âm nhạc và nhảy múa đều có nguồn gốc từ những gì mà giờ đây chúng ta gọi là những môi trường “tôn giáo”; đó là những hoạt động nhằm mục đích kết nối con người với những thực thể và sức mạnh siêu nhiên. Điều này cũng đúng với những trò chơi. Một trong những trò chơi với bóng sớm nhất, một dạng của bóng rổ, được chơi bởi người Maya, là một phần của những lễ kỷ niệm thuộc tôn giáo, và những môn thi đấu của Thế vận hội ban đầu cũng vậy. Sự kết nối này không đáng ngạc nhiên, bởi vì những gì chúng ta gọi là tôn giáo thật sự là những nỗ lực lâu đời và tham vọng nhất để tạo ra trật tự trong ý thức. Chính vì lẽ đó mà hoàn toàn hợp lý khi nói rằng những nghi thức tôn giáo sẽ là một nguồn dồi dào của sự thưởng thức.
Ở thời hiện đại, nghệ thuật, kịch nghệ và cuộc sống nói chung đã đánh mất những mỏ neo siêu nhiên của mình. Trật tự vũ trụ mà trong quá khứ từng giúp soi rọi và mang lại ý nghĩa cho lịch sử loài người đã tan vỡ thành những mảnh vụn rời rạc. Nhiều hệ tư tưởng hiện đang cạnh tranh nhau để đưa ra lời giải thích chính xác nhất cho cách mà chúng ta cư xử: quy luật cung cầu và thuyết “bàn tay vô hình” thao túng thị trường tự do tìm cách giải thích cho những lựa chọn kinh tế đầy lý trí của chúng ta; quy luật xung đột giai cấp tồn tại dưới chủ nghĩa duy vật lịch sử cố lý giải những hành động chính trị phi lý của chúng ta; sự cạnh tranh di truyền mà bộ môn sinh học xã hội dựa vào sẽ giải thích tại sao chúng ta giúp đỡ một vài người nhưng lại hủy hoại những người khác; quy luật tác động của chủ nghĩa hành vi đưa ra lời giải thích về cách chúng ta học hỏi để lặp lại những hành động mang lại niềm vui, ngay cả khi chúng ta không nhận ra chúng. Đây là một số trong những “tôn giáo” hiện đại đã bắt rễ sâu vào khoa học xã hội. Không cái nào trong số đó – với ngoại lệ riêng biệt của chủ nghĩa duy vật lịch sử, bản chất là một tín ngưỡng đang suy yếu dần – đòi hỏi sự ủng hộ đại chúng và không cái nào truyền cảm hứng cho những tầm nhìn thẩm mỹ hay những nghi thức thú vị mà các mô hình của trật tự vũ trụ trước đây đã sinh ra.
Khi những hoạt động dòng chảy hiện đại bị trần tục hóa, chúng không có khả năng kết nối người thực hiện hành động với những hệ thống ý nghĩa mạnh mẽ như những gì mà các bộ môn thi đấu của Thế vận hội hay những trò chơi với bóng của người Maya mang đến. Thông thường, nội dung của chúng chỉ là chủ nghĩa khoái lạc thuần túy: chúng ta mong chúng sẽ cải thiện cảm giác của chúng ta, cả về tinh thần và thể chất, nhưng chúng ta không kỳ vọng chúng liên kết ta với thánh thần. Tuy nhiên, những bước đi của chúng ta để nâng cao chất lượng trải nghiệm lại rất quan trọng với toàn bộ nền văn hóa. Đã từ lâu, người ta nhận ra rằng những hoạt động có năng suất của một xã hội là cách thức hữu ích để mô tả những đặc tính của nó: vì vậy mà chúng ta nói đến những xã hội săn bắt – hái lượm, du mục, nông nghiệp và công nghệ. Nhưng bởi vì những hoạt động dòng chảy được lựa chọn một cách tự do và liên quan mật thiết với nguồn gốc của những gì có ý nghĩa sau cùng, chúng có lẽ là những chỉ số chính xác hơn cho ta biết chúng ta là ai.
DÒNG CHẢY VÀ VĂN HÓA
Yếu tố cốt lõi trong thử nghiệm của nước Mỹ với nền dân chủ chính là biến sự mưu cầu hạnh phúc trở thành một mục tiêu chính trị có ý thức – thực sự là một trách nhiệm của chính phủ. Mặc dù tuyên ngôn độc lập có thể là văn bản chính trị chính thức đầu tiên để nêu ra mục tiêu này một cách rõ ràng, nhưng hẳn đúng là không từng có hệ thống xã hội nào tồn tại lâu dài trừ khi người dân của xã hội đó có một chút ít niềm hy vọng rằng chính phủ sẽ giúp họ có được hạnh phúc. Đương nhiên, có nhiều nền văn hóa áp chế mà quần chúng sẵn sàng chịu đựng bất chấp những người cai trị cực kỳ tồi tệ. Nếu những người nô lệ xây kim tự tháp hiếm khi nổi loạn, đó là bởi vì so sánh với những lựa chọn thay thế mà họ quan sát được, thì việc lao động như những nô lệ cho Pharaoh chuyên quyền cho họ một tương lai có phần đáng hy vọng hơn.
Trong suốt vài thế hệ đã qua, những nhà khoa học xã hội đều kịch liệt từ chối đưa ra những đánh giá giá trị về những nền văn hóa. Bất kỳ một sự so sánh nào không thật sự có căn cứ nghiêm túc đều có nguy cơ bị hiểu là sự xúc phạm. Sẽ là không đúng mực khi nói rằng thói quen, đức tin, hay thể chế của một nền văn hóa, ở khía cạnh nào đó, là tốt hơn một nền văn hóa khác. Đây là “thuyết tương đối văn hóa”, một lập trường mà những nhà nhân loại học thừa nhận vào đầu thế kỷ này, như một phản ứng chống lại những nhận định vị chủng và thiển cận thái quá của thời kỳ Victoria thực dân, khi những quốc gia công nghiệp phương Tây xem họ là đỉnh cao nhất của tiến hóa, tốt hơn những nền văn hóa kém phát triển về công nghệ trong mọi khía cạnh. Sự tự tin ngờ nghệch về uy thế này của chúng ta đã qua từ rất lâu rồi. Chúng ta có thể vẫn căm ghét nếu một người Ả Rập lái một chiếc xe tải chở đầy chất nổ lao vào tòa sứ quán, tự làm mình nổ tung trong quá trình đánh bom cảm tử, nhưng chúng ta không còn có thể cảm thấy thượng đẳng hơn về phương diện đạo đức trong việc lên án đức tin của anh ta về một chỗ đặc biệt trên thiên đường dành sẵn cho những chiến binh cảm tử. Chúng ta phải chấp nhận rằng chuẩn mực đạo đức của chúng ta đơn giản là không còn lưu hành bên ngoài nền văn hóa của chúng ta nữa. Theo như giáo điều mới này, thì dùng một tập hợp những giá trị để đánh giá người khác là không thể chấp nhận. Và vì mỗi một đánh giá chéo những nền văn hóa nhất thiết có bao gồm đến ít nhất một tập hợp các giá trị không thuộc về một trong những nền văn hóa được đánh giá, nên sự so sánh rất có khả năng bị bác bỏ.
Tuy nhiên, nếu chúng ta giả định rằng khát khao có được trải nghiệm tối ưu là mục tiêu trên hết của mỗi người, thì những khó khăn trong sự lý giải được khơi lên từ thuyết tương đối văn hóa sẽ trở nên ít dữ dội hơn. Mỗi một hệ thống xã hội khi đó có thể được đánh giá trên phương diện nó tạo ra bao nhiêu entropy tâm thần, dự liệu được rằng sự hỗn loạn không liên quan đến trật tự lý tưởng của một hoặc những hệ thống đức tin khác, mà liên quan đến những mục tiêu của các thành viên trong xã hội đó. Điểm xuất phát sẽ là tuyên bố rằng một xã hội này thì “tốt hơn” xã hội khác, nếu một số lượng lớn người dân trong xã hội đó có thể tiếp cận với những trải nghiệm phù hợp với mục tiêu của họ. Một tiêu chuẩn cốt yếu thứ hai sẽ chỉ ra một cách chi tiết rằng những trải nghiệm này nên dẫn đến sự phát triển của cái tôi ở mức độ cá nhân, bằng cách cho phép nhiều người nhất có thể phát triển làm tăng những kỹ năng phức tạp.
Dường như khá rõ ràng rằng các nền văn hóa được xem là khác biệt nhau dựa vào mức độ “mưu cầu hạnh phúc” mà nó có thể tạo ra được. Chất lượng cuộc sống trong vài xã hội, ở vài giai đoạn lịch sử, rõ ràng tốt hơn trong những xã hội hay giai đoạn khác. Gần về cuối thế kỷ XVIII, những người đàn ông Anh tầng lớp bình dân hẳn đã tệ hơn nhiều so với trước đó, hoặc sẽ lại tệ như thế lần nữa vào một trăm năm sau. Bằng chứng gợi ra rằng cuộc cách mạng công nghiệp không chỉ rút ngắn tuổi thọ của con người trong vài thế hệ mà còn làm cho họ xấu xa và hung bạo hơn. Khó có thể tưởng tượng rằng những người thợ dệt bị các “nhà máy Satan” nuốt chửng từ tuổi lên năm, những người phải làm việc bảy mươi giờ một tuần hoặc hơn thế cho đến khi họ chết vì kiệt sức, có thể cảm thấy rằng những gì họ nhận được từ cuộc đời là những gì họ muốn, bất kể những giá trị và đức tin mà họ chia sẻ.
Lấy một ví dụ khác, nền văn hóa của những người sống trên đảo Dobu23, theo mô tả của nhà nhân loại học Reo Fortune, là một nền văn hóa cổ xúy cho nỗi sợ hãi bất biến của ma thuật, cho sự ngờ vực ngay cả giữa những người họ hàng thân thuộc nhất và cho thái độ hận thù. Chỉ việc đi vào nhà tắm thôi cũng là một vấn đề lớn, vì nó bao gồm cả việc họ phải bước vào rừng cây bụi, nơi mà người ta nghĩ rằng họ sẽ bị ma thuật hắc ám tấn công khi chỉ có một mình giữa rừng cây. Những người Dobu chẳng có vẻ gì là “thích” những đặc tính này ngập tràn trong trải nghiệm hằng ngày của họ, nhưng họ không nhận ra được những sự lựa chọn thay thế. Họ bị mắc kẹt trong mạng lưới những đức tin và thông lệ mà đã phát triển theo thời gian và điều đó khiến họ vô cùng khó khăn trong việc trải nghiệm sự hài hòa về mặt tinh thần. Nhiều ghi chép về dân tộc học cho rằng entropy tâm thần phổ biến trong những nền văn hóa thời kỳ tiền văn tự nhiều hơn là những gì mà huyền thoại về con người “hoang dã cao quý” đưa ra.
Người Ik ở Uganda, những người không thể đương đầu với một môi trường đang bị hủy hoại đến nỗi không còn cung cấp đủ thức ăn cho họ sinh tồn, đã thể chế hóa sự ích kỷ vượt lên trên cả những ước mơ ngông cuồng nhất của chủ nghĩa tư bản. Người Yonomamo ở Venezuela, cũng giống như những bộ lạc chiến binh khác, tôn sùng sự bạo lực hơn cả những siêu cường quân phiệt của chúng ta và họ thấy rằng không có gì vui bằng một cuộc tấn công đẫm máu bất ngờ sang ngôi làng bên cạnh. Vui cười và mỉm cười gần như là hai từ không được biết đến ở bộ lạc Nigerian, vốn chìm đắm trong ma thuật và những mưu đồ mà Laura Bohannan đã nghiên cứu.
Không có bằng chứng cho thấy rằng bất kỳ một nền văn hóa nào trong số này lựa chọn sự ích kỷ, bạo lực, hay sợ hãi. Hành vi của họ không làm họ vui hơn; mà ngược lại, nó gây ra sự đau khổ. Những đức tin và thói thường vốn ngăn cản hạnh phúc như vậy đều không cần thiết và cũng không thể tránh được; chúng phát triển một cách tình cờ, như là kết quả của những phản ứng ngẫu nhiên trước những điều kiện ngẫu nhiên. Nhưng một khi chúng trở thành một phần của những quy phạm và thói quen thuộc một nền văn hóa, người ta sẽ tự cho rằng mọi thứ phải là như vậy; và họ bắt đầu tin rằng họ không có những lựa chọn khác.
May mắn thay, cũng có nhiều minh chứng của những nền văn hóa, rằng bằng cả sự may mắn và tầm nhìn xa, con người đã thành công trong việc tạo ra một bối cảnh mà ở đó, trạng thái dòng chảy tương đối dễ dàng đạt được. Chẳng hạn như, những người lùn Pygmy ở khu rừng Ituri được Colin Turnbull mô tả là sống trong sự hài hòa với những người khác và với môi trường của họ, đã lấp đầy cuộc sống bằng những hoạt động hữu ích và mang tính thử thách. Khi không phải săn bắn hay chăm chút cho ngôi làng của mình, họ ca hát, nhảy múa, chơi nhạc cụ, hoặc kể chuyện cho nhau nghe. Như trong nhiều nền văn hóa được gọi là “nguyên thủy”, mỗi một người trưởng thành trong xã hội người Pygmy này được kỳ vọng trở thành người có chút gì đó của một diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ, sử gia, cũng như một công nhân có tay nghề. Nền văn hóa của họ sẽ không được đánh giá cao trên phương diện thành tựu vật chất, nhưng trên phương diện cung cấp những trải nghiệm tối ưu thì cách sống của họ dường như đã cực kỳ thành công.
Một ví dụ điển hình khác về cách một nền văn hóa có thể lắp ghép trạng thái dòng chảy trong lối sống của mình được đưa ra bởi một nhà dân tộc học người Canada, Richard Kool, mô tả một trong những bộ lạc da đỏ của British Columbia:
Vùng Shushwap đã và đang được người da đỏ xem là một vùng đất giàu có: giàu cá hồi và trò chơi, giàu nguồn thức ăn dưới lòng đất như những cây thân củ và các loại rễ – một vùng đất sung túc. Trong vùng này, con người sẽ sống trong những ngôi làng cố định và khai thác nguồn tài nguyên cần thiết từ môi trường xung quanh. Họ sở hữu những kỹ thuật phức tạp để sử dụng nguồn tài nguyên từ môi trường một cách rất hiệu quả và tin rằng cuộc sống của họ đang no ấm và thịnh vượng. Thế nhưng, những bậc trưởng bối cũng nói rằng đã có những lúc thế giới trở nên quá dễ đoán và thử thách bắt đầu không còn hiện hữu trong cuộc sống. Mà không có thử thách, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì.
Vì thế mà những bậc trưởng bối, với sự thông thái của mình, đã quyết định rằng toàn bộ ngôi làng nên di chuyển, và những cuộc di cư đó xảy ra mỗi hai mươi lăm đến ba mươi năm. Toàn bộ người dân sẽ di chuyển đến một khu vực khác thuộc vùng Shushwap, và ở đó họ tìm thấy thử thách mới. Ở đó có những dòng suối để khám phá, những con đường mòn mới để thám hiểm, những khu vực mới, nơi có hằng hà sa số những rừng hoa vàng. Giờ thì cuộc sống sẽ có lại được ý nghĩa của nó và đáng sống hơn. Mọi người sẽ cảm thấy trẻ và khỏe lại. Tình cờ, nó cũng giúp cho những nguồn tài nguyên đã bị khai thác trong khu vực trước đó được hồi phục sau nhiều năm bị thu hoạch.
Một ví dụ thú vị khác là Thần cung Isé nằm ở thành phố Isé, miền nam Kyoto, Nhật Bản. Thần cung Isé được xây dựng vào khoảng 1500 năm trước, trên một trong hai mảnh rừng liền kề nhau. Cứ mỗi hai mươi năm, nó lại được di dời khỏi mảnh rừng mà nó tọa lạc và được xây dựng lại trên mảnh rừng cạnh bên. Tính đến năm 1973, nó đã được tái xây dựng mười sáu lần. (Trong cuộc xung đột giữa những hoàng đế đối đầu nhau ở thế kỷ XIV thông lệ này tạm thời bị gián đoạn).
Chiến lược được áp dụng bởi các thổ dân vùng Shushwap và các tu sĩ ở Thần cung Isé cũng tương tự với chiến lược mà một vài chính khách chỉ có thể mơ đến. Chẳng hạn, cả Thomas Jefferson và Mao Trạch Đông đều tin rằng mỗi một thế hệ cần thực hiện một cuộc cách mạng của riêng mình để những thành viên trong đó tham gia vào hệ thống chính trị chi phối cuộc sống của họ. Trong thực tế, chỉ một vài nền văn hóa đã từng đạt được sự ăn khớp giữa nhu cầu tinh thần của người dân và những lựa chọn sẵn có cho cuộc sống của họ. Còn đa phần không đạt được mục tiêu, hoặc bởi vì họ khiến cho sự tồn tại trở thành một nhiệm vụ quá vất vả, hoặc bằng việc họ tự khép mình trong những khuôn mẫu cứng nhắc làm dập tắt những cơ hội hành động của mỗi thế hệ kế thừa.
Các nền văn hóa là những công trình phòng thủ chống lại sự hỗn loạn, được tạo ra để giảm thiểu tác động của sự ngẫu nhiên lên trải nghiệm. Chúng là những phản ứng thích nghi, như lông vũ với loài chim và lông mao với các loài động vật có vú. Các nền văn hóa định ra những chuẩn mực, phát triển những mục tiêu, xây dựng niềm tin giúp chúng ta xử trí những thách thức của cuộc sống. Để làm được như vậy, chúng phải loại trừ những mục tiêu và niềm tin triệt tiêu lẫn nhau và vì vậy mà chúng giới hạn những khả năng; nhưng việc hướng sự chú ý đến một tập hợp những mục tiêu và phương tiện có giới hạn này chính là thứ cấp phép cho hành động không cần nỗ lực trong những ranh giới tự tạo ra.
Chính trong khía cạnh này mà những trò chơi cung cấp một sự tương đồng thuyết phục cho các nền văn hóa. Cả hai đều có nhiều hoặc ít hơn những mục tiêu và luật lệ ràng buộc để con người trở nên gắn bó trong một tiến trình và hành động với ít sự ngờ vực và phân tâm nhất. Sự khác biệt chủ yếu nằm ở quy mô. Các nền văn hóa bao trùm lên mọi thứ: chúng định hình cách mà một người nên được sinh ra, cách người ta nên trưởng thành, kết hôn, sinh con và cả việc sống chết. Các trò chơi sẽ lấp đầy thời gian chuyển cảnh trong kịch bản văn hóa. Chúng gia tăng hành động và sự tập trung trong suốt “thời gian rảnh rỗi” khi những chỉ dẫn về văn hóa đưa ra quá ít lời gợi ý và sự chú ý của một người có nguy cơ đi lang thang vào cõi hỗn loạn chưa được khám phá.
Khi một nền văn hóa thành công trong việc phát triển một chuỗi những mục tiêu và luật lệ quá thuyết phục và phù hợp với những kỹ năng của người dân đến mức những thành viên của nền văn hóa đó có thể trải nghiệm trạng thái dòng chảy với cường độ và tần suất khác thường, thì sự tương đồng giữa các trò chơi và những nền văn hóa thậm chí trở nên nhiều hơn. Trong trường hợp như vậy, chúng ta có thể nói rằng toàn bộ nền văn hóa đã trở thành một “trò chơi vĩ đại”. Một vài nền văn minh cổ có thể đã thành công trong việc chạm đến trạng thái này. Những người Athens, những người La Mã uốn nắn những hành động của mình bằng phẩm chất virtus, những hiền triết Trung Hoa hay những người Ấn Độ theo đạo Bà La Môn sống hết cuộc đời bằng thái độ phức tạp và có lẽ đã tìm thấy cùng một sự hứng thú từ sự hài hòa đầy thách thức trong những hành động của chính họ giống như những gì họ sẽ có từ một điệu nhảy kéo dài. Thành đô Athens, luật lệ của La Mã, bộ máy quan lại có nền móng vững chắc của Trung Hoa và trật tự tâm linh hoàn thiện của Ấn Độ đã thành công và duy trì những khuôn mẫu về cách mà một nền văn hóa có thể tăng cường trạng thái dòng chảy – ít nhất là cho những ai đủ may mắn để có mặt ở những vai trò quan trọng.
Một nền văn hóa tăng cường trạng thái dòng chảy không nhất thiết phải “tốt” trong mọi ý nghĩa đạo đức. Luật lệ của xứ Sparta có vẻ như tàn nhẫn một cách thừa thãi từ góc nhìn lợi thế của thế kỷ XX, dù vậy chúng hoàn toàn được xem là thành công trong việc làm động cơ thúc đẩy cho những ai tuân thủ theo chúng. Niềm vui của chiến trận và sự giết chóc làm phấn khích những bộ lạc du mục Tartar hay những binh lính Thổ Nhĩ Kỳ đã là truyền thuyết. Chắc chắn đúng rằng đối với đại đa số dân châu Âu, những người hoang mang trước những cú sốc kinh tế và văn hóa trong những năm 1920, thì chính thể và ý thức hệ Phát xít đã đề ra một kế hoạch trò chơi hấp dẫn. Nó thiết lập những mục tiêu đơn giản, phản hồi rõ ràng và cho phép một sự gắn bó lại với cuộc sống mà nhiều người nhận thấy là sự giải tỏa khỏi những lo lắng và thất vọng.
Tương tự như vậy, trong khi trạng thái dòng chảy là một nguồn động lực mạnh mẽ, nó lại không bảo đảm được đức hạnh ở những người trải nghiệm nó. Nếu mọi thứ khác đều ngang bằng nhau, thì một nền văn hóa cung cấp được trải nghiệm dòng chảy có thể được xem là “tốt hơn” một nền văn hóa không làm được điều đó. Nhưng khi một nhóm người bám lấy các mục tiêu và những quy tắc làm gia tăng niềm vui của cuộc sống thì luôn có khả năng là điều đó xảy ra với việc tổn hại người khác. Trạng thái dòng chảy của người Athens được cung cấp bởi những người nô lệ tạo ra tài sản cho họ, cũng như lối sống tao nhã ở những đồn điền miền Nam châu Mỹ vốn dựa trên lao động của những nô lệ nhập cư.
Chúng ta vẫn còn cách xa khả năng đo lường chính xác có bao nhiêu trải nghiệm tối ưu mà những nền văn hóa khác nhau có thể tạo ra. Theo cuộc khảo sát quy mô lớn của Gallup được tiến hành vào năm 1976, 40٪ người dân Bắc Mỹ nói rằng họ “rất hạnh phúc”, còn với người châu Âu chỉ có 20%, 18% với người châu Phi và chỉ có 7% với những người ở vùng Viễn Đông. Mặt khác, một cuộc khảo sát khác được tiến hành chỉ hai năm trước, chỉ ra rằng chỉ số hạnh phúc cá nhân của công dân Mỹ cũng chỉ tương đương với người Cuba hay Ai Cập, những người có chỉ số GNP trên đầu người ít hơn của người Mỹ lần lượt là năm và hơn mười lần. Người Tây Đức và Nigeria đã đưa ra chỉ số hạnh phúc tương đương nhau, bất chấp sự chênh lệch hơn mười lăm lần trong chỉ số GNP trên đầu người. Cho đến nay, những sự không nhất quán này chỉ chứng minh rằng những công cụ để đo lường trải nghiệm tối ưu của chúng ta vẫn còn rất thô sơ. Và việc tồn tại những sự khác biệt dường như là không thể chối cãi.
Mặc cho những khám phá mang tính nước đôi, những cuộc khảo sát quy mô lớn cũng đồng ý rằng công dân của những quốc gia giàu có hơn, giáo dục tốt hơn và được lãnh đạo bởi những bộ máy chính quyền ổn định hơn có mức độ hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống cao hơn. Vương quốc Anh, Úc, New Zealand và Hà Lan là những đất nước hạnh phúc nhất và nước Mỹ, bất chấp tỉ lệ cao của tình trạng ly hôn, nghiện rượu, phạm tội và nghiện hút, cũng không bị bỏ lại quá xa. Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu xét về lượng thời gian và nguồn lực mà chúng ta dành cho những hoạt động có mục đích là tạo ra niềm vui. Trung bình một người Mỹ trưởng thành làm việc chỉ khoảng ba mươi giờ một tuần (và dành thêm mười giờ đồng hồ làm những việc không liên quan đến công việc của họ ngay tại chỗ làm, như mơ mộng hay nói chuyện phiếm với những đồng nghiệp thân thiết). Họ mất ít thời gian hơn – hai mươi giờ đồng hồ một tuần – cho những hoạt động thư nhàn: bảy giờ để xem truyền hình, ba giờ để đọc sách, hai giờ cho những việc năng động hơn như đi bộ, chơi nhạc, hay chơi bowling và bảy giờ còn lại cho những hoạt động xã hội như tiệc tùng, xem phim, hoặc tiếp đãi gia đình và bạn bè. Năm mươi đến sáu mươi giờ đồng hồ còn lại của thời gian không ngủ, người Mỹ dành cho các hoạt động duy trì như ăn uống, di chuyển từ nhà đến chỗ làm và ngược lại, mua sắm, nấu ăn, giặt giũ và sửa chữa đồ đạc; hoặc rảnh rỗi chẳng làm gì, chỉ ngồi một mình và nhìn vào khoảng không.
Mặc dù trung bình người Mỹ có nhiều thời gian rảnh rỗi và tiếp cận nhiều đến những hoạt động thư giãn nhưng cũng vì thế mà họ không thường xuyên có trải nghiệm dòng chảy. Tiềm năng không có nghĩa là thực tế và số lượng không thể nào biến thành chất lượng được. Chẳng hạn như, xem tivi – hoạt động giải trí được lựa chọn thường xuyên nhất ở Mỹ ngày nay, rất hiếm khi dẫn đến điều kiện cho dòng chảy. Trên thực tế, những người đang làm việc có được trải nghiệm dòng chảy – sự tập trung tuyệt đối, những thử thách và kỹ năng cao và tương xứng, cảm giác kiểm soát và sự hài lòng – thường là nhiều hơn khoảng bốn lần so với khi họ xem tivi trong khoảng thời gian tương ứng.
Một trong những nghịch lý đáng mỉa mai nhất của thời đại chúng ta chính là sự sẵn có của thời gian nhàn rỗi khổng lồ này lại vì lý do nào đó mà thất bại trong việc biến thành sự thưởng thức. So với con người sống trong vài thế hệ về trước đây thôi, chúng ta có vô vàn cơ hội tuyệt vời hơn để trải qua những khoảng thời gian tốt đẹp nhưng lại không có điều gì chứng tỏ rằng chúng ta thật sự thưởng thức cuộc sống hơn tổ tiên của mình. Chỉ riêng những cơ hội thôi thì chưa đủ. Chúng ta còn cần có những kỹ năng để khai thác cơ hội. Và chúng ta cần biết cách kiểm soát ý thức – một kỹ năng mà đa số mọi người đã không học hỏi để trau dồi. Dù được bao quanh bởi những sự lựa chọn tiêu khiển và đầy đủ những thiết bị giải trí cải tiến đáng kinh ngạc, hầu hết chúng ta tiếp tục sống trong buồn chán và thất vọng một cách mơ hồ.
Sự thật này đưa chúng ta đến điều kiện thứ hai có ảnh hưởng đến việc liệu những trải nghiệm tối ưu có xảy ra hay không: khả năng tái cấu trúc ý thức của một cá nhân để tạo ra trải nghiệm dòng chảy. Một vài người tận hưởng cuộc sống bất kể họ đang ở đâu, trong khi những người khác lại cảm thấy chán nản ngay cả khi đứng trước những viễn cảnh rực rỡ nhất. Vì thế, bên cạnh việc xem xét đến những điều kiện bên ngoài, hoặc những cấu trúc của những hoạt động dòng chảy, chúng ta cũng cần xét đến những điều kiện bên trong giúp dòng chảy có thể xuất hiện.
TÍNH CÁCH CÓ MỤC ĐÍCH TỰ THÂN
Không dễ dàng gì để biến trải nghiệm thông thường thành trải nghiệm dòng chảy, nhưng hầu hết mọi người đều có thể cải thiện khả năng của mình để làm được điều đó. Trong khi phần còn lại của quyển sách này sẽ tiếp tục khám phá hiện tượng của trải nghiệm tối ưu, điều mà nói cách khác, sẽ giúp độc giả trở nên thân thuộc hơn với nó, thì bây giờ chúng tôi sẽ bàn về một vấn đề khác: Liệu mọi người có tiềm năng như nhau trong việc điều khiển ý thức không; và nếu không, thì điều gì giúp ta phân biệt những người dễ dàng làm được và những người không làm được.
Một vài cá nhân có lẽ bẩm sinh không thể trải nghiệm dòng chảy. Những chuyên gia về tâm thần học mô tả bệnh nhân tâm thần phân liệt như là đang mắc chứng mất khoái cảm (anhedonia), mà trên lý thuyết có nghĩa là “thiếu đi niềm vui”. Hội chứng này thể hiện sự liên quan đến “sự bội thực các tác nhân kích thích”, đề cập đến một thực tế rằng người mắc bệnh tâm thần phân liệt bị buộc phải chú ý đến những tác nhân kích thích không liên quan để xử lý thông tin dù họ có muốn hay không. Bi kịch không thể giữ mọi thứ trong hoặc ngoài ý thức của một bệnh nhân tâm thần phân liệt được các bệnh nhân mô tả một cách sinh động thế này: “Mọi thứ cứ kéo đến với tôi bây giờ và tôi không thể kiểm soát được chúng. Tôi dường như không còn có cùng tiếng nói với mọi thứ nữa rồi. Có những lúc tôi thậm chí còn không thể điều khiển được những gì mình nghĩ”. Hoặc: “Mọi thứ đang diễn ra quá nhanh. Tôi không còn hiểu rõ về chúng và tôi mất phương hướng. Tôi đang tham gia mọi thứ cùng một lúc và chính vì thế mà tôi không thật sự tham gia vào cái gì cả”.
Không thể tập trung, tham gia vào mọi thứ một cách vô tổ chức, không mấy ngạc nhiên khi những bệnh nhân mắc chứng bệnh này không thể sống vui vẻ. Nhưng điều gì đã gây ra sự bội thực các tác nhân kích thích ngay từ đầu?
Một phần của câu trả lời hẳn phải liên quan đến những nguyên nhân di truyền bẩm sinh. Một vài người đơn giản là ít có khả năng tập trung năng lượng tinh thần hơn những người khác. Giữa những đứa trẻ tuổi đi học, rất nhiều khiếm khuyết trong khả năng học tập đã được phân loại dưới tiêu đề “chứng rối loạn chú ý”, bởi chúng đều có một điểm chung là thiếu kiểm soát khả năng chú ý. Mặc dù các rối loạn chú ý có khả năng phụ thuộc vào sự mất cân bằng hóa học, nhưng cũng rất có khả năng rằng chất lượng của trải nghiệm thời thơ ấu hoặc là sẽ làm trầm trọng, hoặc sẽ xoa dịu diễn biến của chúng. Từ góc nhìn của chúng tôi, điều quan trọng cần được nhận ra chính là những rối loạn chú ý không chỉ cản trở việc học hành mà đồng thời còn loại trừ khả năng của trải nghiệm dòng chảy. Khi một người không thể kiểm soát năng lượng tinh thần, việc học hành hay thật sự thưởng thức điều gì đó là không thể xảy ra.
Một trở ngại nhẹ nhàng hơn cho việc trải nghiệm trạng thái dòng chảy chính là sự ý thức về cái tôi (self-consciousness) thái quá. Một người cứ luôn lo lắng về việc người khác sẽ tiếp nhận mình như thế nào, luôn e sợ sẽ tạo ra ấn tượng không tốt hoặc sẽ làm gì đó không phù hợp, cũng bị loại trừ khỏi sự thưởng thức, vĩnh viễn. Và những người tự xem mình là trung tâm của mọi thứ (self-centered) một cách thái quá cũng vậy. Một cá nhân tự xem mình là trung tâm thường không tự biết mình, mà thay vào đó người này đánh giá mỗi mẩu thông tin chỉ trên phương diện nó liên quan đến những khát vọng của mình như thế nào. Với những người như vậy, mọi thứ đều chẳng mang giá trị gì cả. Một đóa hoa không đáng để nhìn lại trừ khi nó có thể sử dụng được; một người, dù nam hay nữ, không thể làm tăng lợi ích của người khác thì không đáng để chú ý thêm. Ý thức được cấu trúc toàn bộ trên phương diện những mục đích của riêng nó và không có gì được cho phép tồn tại trong nó mà không phù hợp với những mục đích đó.
Mặc dù một người tự ý thức khác một người tự cho mình là trung tâm trên nhiều mặt nhưng không ai trong họ đủ khả năng kiểm soát năng lượng tinh thần để đi vào trải nghiệm dòng chảy một cách dễ dàng. Cả hai đều thiếu mất tính lưu động cần có của sự chú ý để gắn kết với những hoạt động tự có ý nghĩa; quá nhiều năng lượng tinh thần bao phủ lấy cái tôi và sự chú ý tự do được dẫn dắt một cách cứng nhắc bởi những nhu cầu của cái tôi. Dưới những điều kiện này, rất khó để chú tâm vào những mục tiêu bên trong, để đắm chìm trong một hoạt động không có phần thưởng nào ngoài chính bản thân sự tương tác.
Chứng rối loạn chú ý và sự bội thực tác nhân kích thích ngăn cản dòng chảy bởi vì năng lượng tinh thần quá di động và thất thường. Sự tự ý thức về bản ngã hay xem mình là trung tâm thái quá lại ngăn cản dòng chảy bởi một lý do trái ngược: Sự chú ý quá cứng nhắc và chặt chẽ. Sự cực đoan cũng không cho phép con người kiểm soát được sự chú ý. Những ai đang ở những điểm cực hạn này đều không thể sống vui vẻ, gặp khó khăn trong việc học hỏi và đánh mất những cơ hội cho sự phát triển của cái tôi. Nghịch lý là một cái tôi tự xem mình là trung tâm lại không thể trở nên phức tạp hơn, bởi vì tất cả năng lượng tinh thần mà nó tùy ý sử dụng được đầu tư để đạt được những mục tiêu hiện tại của nó thay vì để học những cái mới.
Những trở ngại ngăn cản dòng chảy được xem xét cho đến nay đều nằm trong chính bản thân mỗi cá nhân. Nhưng cũng có nhiều trở ngại thuộc về môi trường có uy lực lớn đối với sự thưởng thức. Một vài trong số này là tự nhiên, một vài có căn nguyên mang tính xã hội. Chẳng hạn, người ta tin rằng những người sống trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt của vùng Bắc cực, hoặc ở sa mạc Kalahari, có rất ít cơ hội để thưởng thức cuộc sống. Thế nhưng ngay cả những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhất cũng không thể loại bỏ dòng chảy hoàn toàn. Người Eskimo ở những vùng đất hoang vắng, không có điều kiện sống của mình, đã học ca hát, nhảy múa, đùa giỡn, chạm khắc những thứ đẹp đẽ và viết lên một thần thoại phức tạp để tạo ra trật tự và ý nghĩa cho những trải nghiệm của họ. Có thể những người sống ở xứ tuyết và xứ cát, những người không thể tạo ra niềm vui cho cuộc sống của họ, cuối cùng sẽ bỏ cuộc và qua đời. Nhưng sự thật là vài chương trình truyền hình thực tế về sinh tồn đã chỉ ra rằng thiên nhiên tự nó không thể ngăn cản dòng chảy xảy ra được.
Những điều kiện xã hội ngăn chặn dòng chảy thì có thể khó để vượt qua hơn. Một trong những hậu quả của chế độ nô lệ, sự áp bức, bóc lột và tàn phá của những giá trị văn hóa chính là việc triệt tiêu sự thưởng thức. Khi những người bản địa (hiện đã tuyệt chủng) trên những hòn đảo vùng Ca-ri-bê bị bắt làm việc ở các đồn điền của người Tây Ban Nha đi chinh phạt, cuộc sống của họ trở nên đau đớn và vô nghĩa đến mức họ mất đi khát vọng được sống và thậm chí ngừng sinh sản. Có khả năng là nhiều nền văn hóa đã biến mất theo cách tương tự, bởi vì họ không còn có thể tạo ra trải nghiệm mang tính thưởng thức.
Có hai thuật ngữ mô tả trạng thái của bệnh lý xã hội áp dụng cho cả những điều kiện làm cản trở trải nghiệm dòng chảy, đó là: Anomie (tình trạng vô tổ chức) và Alienation (sự tha hóa). Anomie – theo đúng nghĩa đen là “thiếu luật lệ” – là tên mà nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim đặt cho một trạng thái xã hội mà những chuẩn mực hành vi trở nên rối ren. Khi những gì được phép và những gì không được phép đã không còn rõ ràng, khi không còn chắc chắn quan điểm cộng đồng nào là có giá trị, thì hành vi trở nên thất thường và vô nghĩa. Những người phụ thuộc vào luật lệ xã hội để mang đến trật tự cho ý thức của mình trở nên lo lắng. Tình trạng thiếu tổ chức có thể gia tăng khi nền kinh tế sụp đổ, hoặc khi một nền văn hóa bị phá hủy bởi một nền văn hóa khác, nhưng chúng cũng có thể đến khi sự thịnh vượng gia tăng nhanh chóng, khi mà những giá trị cũ của tiết kiệm và lao động chăm chỉ không còn thích đáng như chúng đã từng.
Sự tha hóa lại là mặt đối lập trên nhiều phương diện: nó là tình trạng mà ở đó con người bị hệ thống xã hội cưỡng ép hành động theo hướng ngược lại với những mục tiêu của họ. Một công nhân phải làm cùng một nhiệm vụ vô nghĩa hàng trăm lần trước dây chuyền lắp ráp để nuôi sống bản thân và gia đình có thể trở nên phẫn uất. Ở một số quốc gia, một trong những nguồn cơn khó chịu nhất của sự tha hóa là sự bắt buộc phải dành nhiều thời gian rảnh để xếp hàng đợi thức ăn, để có cái mặc, để giải trí, hoặc vì những thủ tục quan liêu bất tận. Khi một xã hội ở trong tình trạng vô tổ chức, dòng chảy sẽ trở nên khó khăn hơn vì không rõ đâu là những thứ đáng để đầu tư năng lượng tinh thần; khi một xã hội đối mặt với sự tha hóa, vấn đề sẽ là người ta không thể tập trung năng lượng tinh thần vào những gì rõ ràng là đáng để khát khao.
Thật thú vị khi nhận thấy rằng hai trở ngại thuộc xã hội đối với dòng chảy trên đây, tình trạng vô tổ chức và sự tha hóa, về mặt chức năng lại tương đồng với hai bệnh lý cá nhân, là hội chứng rối loạn chú ý và hội chứng tự cho mình là trung tâm. Ở cả hai mức độ, cá nhân và tập thể, những gì ngăn cản trạng thái dòng chảy diễn ra chính là sự phân mảnh của quá trình chú ý (như khi ở trong tình trạng vô tổ chức và hội chứng rối loạn chú ý), hoặc sự cứng nhắc quá mức của chúng (như khi ở trong tình trạng tha hóa và chứng tự cho mình là trung tâm). Ở mức độ cá nhân, tình trạng vô tổ chức tương ứng với sự lo âu, trong khi tình trạng tha hóa tương ứng với sự chán nản.
SINH LÝ THẦN KINH VÀ TRẠNG THÁI DÒNG CHẢY
Cũng như một vài người được sinh ra với kết cấu cơ bắp tốt hơn, có khả năng có những cá nhân được sinh ra với ưu thế về mặt di truyền trong việc kiểm soát ý thức. Những người như vậy có thể sẽ ít mắc phải những hội chứng rối loạn chú ý và họ có thể trải nghiệm dòng chảy dễ dàng hơn.
Nghiên cứu của Tiến sĩ Jean Hamilton về nhận thức trực quan và mô hình kích hoạt vỏ não đã củng cố thêm cho tuyên bố trên. Một tập hợp bằng chứng của bà được dựa trên một bài kiểm tra mà ở đó những đối tượng phải nhìn vào một hình ảnh gây ảo giác (khối lập phương Necker, hoặc ảnh minh họa kiểu Escher, mà có lúc hình ảnh như đang vươn lên trên mặt phẳng tờ giấy về phía người nhìn, nhưng ở một lúc khác lại như đang lùi vào phía sau mặt phẳng đó) và rồi “đảo ngược” nó về mặt tri giác – ấy là, nhìn vào hình ảnh đang nhô lên khỏi mặt giấy như thể nó đang lùi lại phía sau và rồi tiếp tục đảo lại nữa. Tiến sĩ Hamilton nhận thấy rằng những sinh viên được xác nhận có động lực nội tại trong nhu cầu cuộc sống hằng ngày ít hơn mức trung bình sẽ cần điều chỉnh đôi mắt của họ ở nhiều điểm hơn mới có thể đảo ngược hình ảnh ảo giác, trong khi những sinh viên thấy cuộc sống của họ có sự tưởng thưởng nội tại nhiều hơn thì cần ít điểm nhìn hơn, hoặc thậm chí chỉ cần một điểm nhìn đơn lẻ, để đảo ngược hình ảnh.
Những phát hiện này đưa ra giả thuyết rằng con người có thể bất đồng về số tín hiệu bên ngoài mà họ cần để hoàn thành cùng một nhiệm vụ tinh thần. Những cá nhân đòi hỏi một lượng lớn thông tin bên ngoài để định hình sự hiện diện của thực tại trong ý thức có thể trở nên phụ thuộc nhiều vào môi trường bên ngoài trong việc sử dụng tâm trí của họ. Họ thiếu kiểm soát với những suy nghĩ của mình, điều sẽ khiến họ khó khăn hơn trong việc thưởng thức trải nghiệm. Ngược lại, những người cần chỉ một vài tín hiệu bên ngoài để có thể tái hiện sự kiện trong ý thức thì độc lập khỏi môi trường bên ngoài hơn. Họ có sự chú ý linh hoạt cho phép họ tái cấu trúc trải nghiệm dễ dàng hơn và chính vì thế mà họ thường xuyên đạt được trải nghiệm tối ưu hơn.
Trong một chuỗi trải nghiệm khác, những sinh viên có và không có những trải nghiệm dòng chảy thường xuyên được yêu cầu phải chú ý vào những tia sáng hoặc vào âm thanh trong phòng thí nghiệm. Trong khi các đối tượng tham gia vào nhiệm vụ về sự chú ý này, thì sự hoạt hóa vỏ não của họ để phản ứng lại tác nhân kích thích đã được đo lại và được tính trung bình một cách riêng biệt cho từng điều kiện nghe và nhìn. (Những kết quả thu được này được gọi là “điện thế gợi” (evoked potentials)). Nghiên cứu của Tiến sĩ Hamilton cho thấy rằng chỉ những đối tượng hiếm khi có trải nghiệm dòng chảy mới hành động như dự đoán: khi phản ứng với tác nhân kích thích là tia sáng, sự hoạt hóa vỏ não đã tăng đáng kể hơn so với mức cơ bản của họ. Còn kết quả từ những đối tượng thường xuyên báo cáo trải nghiệm dòng chảy lại khá bất ngờ: sự hoạt hóa giảm đi khi họ đang tập trung. Thay vì đòi hỏi nhiều công sức hơn, việc đầu tư sự chú ý thật sự có vẻ làm giảm đi nỗ lực về mặt tinh thần. Một phương pháp đo lường hành vi tách biệt của sự chú ý cũng đã xác nhận rằng nhóm này cũng hành xử đúng đắn hơn trong một nhiệm vụ được duy trì liên tục sự chú ý.
Lý giải thích hợp nhất cho phát hiện bất thường này có vẻ là vì nhóm có trải nghiệm dòng chảy nhiều hơn có khả năng giảm thiểu hoạt động tinh thần trong mọi kênh thông tin trừ kênh thông tin có liên quan đến sự tập trung vào kích thích ánh sáng. Điều này đã đặt ra giả thuyết rằng những người có thể tự làm mình vui trong nhiều hoàn cảnh khác nhau có khả năng sàng lọc sự kích thích và chỉ tập trung vào những gì họ cho là thích hợp tại thời điểm hiện tại. Trong khi việc chú ý nói chung bao hàm một gánh nặng phụ thêm của những thông tin đang được xử lý vượt ngưỡng nỗ lực thông thường, thì đối với những người đã học được cách điều khiển ý thức để tập trung sự chú ý sẽ tương đối dễ dàng, bởi vì họ có thể tắt hết mọi quá trình tinh thần khác, trừ quá trình có liên quan. Chính nhờ tính linh hoạt của sự chú ý này, thứ tương phản rõ nét với sự bội thực vô ích của bệnh tâm thần phân liệt, mà có thể cung cấp nền tảng thần kinh cho tính cách có mục đích tự thân.
Tuy nhiên, bằng chứng về thần kinh không chứng minh rằng một vài cá nhân được thừa hưởng ưu thế về mặt di truyền trong việc kiểm soát sự chú ý và vì thế cũng không có ưu thế trong trải nghiệm dòng chảy. Những phát hiện này có thể được giải thích trên phương diện học hỏi hơn là sự kế thừa. Sự liên kết giữa khả năng tập trung và dòng chảy đã khá rõ ràng; và sẽ cần nghiên cứu chuyên sâu hơn để biết chắc là cái nào tạo ra cái nào.
TÁC ĐỘNG CỦA GIA ĐÌNH ĐẾN TÍNH CÁCH CÓ MỤC ĐÍCH TỰ THÂN
Một lợi thế về mặt thần kinh trong quá trình xử lý thông tin có thể không phải là chìa khóa duy nhất lý giải lý do vì sao một vài người vui vẻ chờ đợi ở trạm xe buýt trong khi những người khác lại thấy buồn chán bất kể môi trường của họ thú vị thế nào. Những ảnh hưởng sớm từ thời thơ ấu cũng rất có thể là nhân tố quyết định liệu một người có dễ dàng có được trải nghiệm dòng chảy hay không.
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng cách mà cha mẹ tương tác với một đứa trẻ sẽ có một tác động lâu dài đến kiểu người mà đứa trẻ sẽ trở thành khi lớn lên. Chẳng hạn, trong một trong số những nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Chicago của chúng tôi, Kevin Rathunde đã quan sát được rằng những thanh thiếu niên có mối quan hệ bền chắc với cha mẹ mình thì hạnh phúc, hài lòng và mạnh mẽ hơn đáng kể trong hầu hết những tình huống của cuộc đời so với những đứa trẻ cùng lứa tuổi mà không có được một mối quan hệ như vậy. Bối cảnh gia đình thúc đẩy trải nghiệm tối ưu có thể được mô tả bằng năm đặc tính. Đặc tính thứ nhất là sự rõ ràng (clarity): Những thanh thiếu niên cảm thấy chúng biết cha mẹ mong chờ gì từ mình – những mục tiêu và phản hồi trong tương tác gia đình không mập mờ nước đôi. Thứ hai là sự tập trung (centering), hay chính là nhận thức của những đứa trẻ rằng cha mẹ chúng quan tâm đến những gì chúng làm trong hiện tại, đến cảm xúc cụ thể và những trải nghiệm của chúng hơn là bận tâm với việc liệu chúng có vào được một trường đại học tốt hay tìm được một việc làm lương cao hay không. Tiếp theo là vấn đề của sự lựa chọn (choice): trẻ em cảm thấy chúng có nhiều khả năng khác nhau để lựa chọn, bao gồm cả việc phá vỡ những quy tắc do cha mẹ đặt ra – miễn là chúng được chuẩn bị để đối mặt với những hậu quả. Đặc tính khác biệt thứ tư là sự cam kết (commitment), hoặc lòng tin cho phép đứa trẻ cảm thấy đủ thoải mái để đặt cái khiên phòng vệ của chúng sang một bên và mạnh dạn tham gia vào bất cứ việc gì chúng thấy hứng thú. Và cuối cùng là thách thức (challenge), hay là tâm sức của cha mẹ bỏ ra để cung cấp các cơ hội hành động có tính phức tạp gia tăng cho con cái mình.
Sự hiện diện của năm điều kiện này giúp cho những gì được gọi là “bối cảnh gia đình có mục đích tự thân” có thể xảy ra, bởi vì chúng cung cấp một sự rèn luyện lý tưởng cho việc tận hưởng cuộc sống. Năm đặc tính tương ứng rõ ràng với những chiều kích của trải nghiệm dòng chảy. Trẻ em lớn lên trong những hoàn cảnh gia đình biết tạo điều kiện thuận lợi cho sự minh bạch của những mục tiêu, phản hồi, cảm giác kiểm soát, sự tập trung vào nhiệm vụ trước mắt, cho động lực nội tại và sự thử thách thì nhìn chung sẽ có cơ hội tốt hơn để sắp xếp cuộc sống của chúng sao cho trải nghiệm dòng chảy trở thành khả dĩ.
Thêm nữa, những gia đình cung cấp một bối cảnh mục đích tự thân còn duy trì một nguồn năng lượng tinh thần khá lớn cho các thành viên trong nhà, nhờ đó mà có thể gia tăng niềm vui cho tất cả. Những đứa trẻ biết những gì chúng có thể và không thể làm, những đứa trẻ không cần phải tranh cãi liên miên về những quy tắc hay sự kiểm soát, những đứa trẻ không phải lo lắng về những kỳ vọng đè nặng của cha mẹ về thành công của tương lai của chúng, những đứa trẻ như vậy được giải phóng khỏi rất nhiều đòi hỏi sự chú ý mà ở những gia đình hỗn loạn hơn thường có. Chúng được tự do phát triển đam mê trong những hoạt động mà sẽ mở rộng cái tôi của chúng. Trong những gia đình thiếu trật tự hơn, phần lớn năng lượng được dùng cho những cuộc đàm phán và xung đột dai dẳng và được dùng vào nỗ lực của những đứa trẻ để bảo vệ cái tôi mơ hồ của chúng khỏi cảnh bị chôn vùi bởi những mục tiêu của người khác.
Không bất ngờ khi sự khác nhau giữa những đứa trẻ vị thành niên có gia đình cho chúng một bối cảnh có mục đích tự thân và những đứa trẻ có gia đình thiếu sự vững chắc khi con cái quây quần chính là: những đứa trẻ đến từ một bối cảnh tự thân sẽ hạnh phúc, mạnh mẽ, vui vẻ và hài lòng hơn những đứa trẻ kém may mắn cùng lứa tuổi. Những sự khác biệt cũng thể hiện khi những đứa trẻ này tự học, hoặc khi ở trường: lúc này, trải nghiệm tối ưu dễ đến với những đứa trẻ từ những gia đình có mục đích tự thân hơn. Chỉ khi đám trẻ ở cùng bạn bè thì sự khác biệt mới biến mất: ở với bạn bè thì cả hai nhóm trên đều cảm thấy tích cực như nhau, bất kể gia đình chúng có thuộc nhóm có mục đích tự thân hay không.
Có lẽ đúng là có những cách cha mẹ cư xử với con cái từ những thời điểm đầu đời của con mà sẽ khiến khả năng tìm được niềm vui của chúng dễ dàng hơn, hoặc khó khăn hơn. Tuy nhiên, với vấn đề này, không có nghiên cứu dài hạn nào theo dấu những mối quan hệ nhân quả theo thời gian. Dù vậy, hiển nhiên là một đứa trẻ bị bạo hành, hoặc đứa trẻ bị đe dọa sẽ mất đi tình yêu của cha mẹ – và không may là chúng ta đang nhận thức được tỉ lệ ngày càng gia tăng của những đứa trẻ bị ngược đãi ngay trong nền văn hóa này – sẽ vô cùng lo lắng về việc giữ cho ý thức về cái tôi của mình không bị tách rời cốt để có chút năng lượng còn lại để theo đuổi những phần thưởng nội tại. Thay vì tìm kiếm sự phức tạp của việc thưởng thức, một đứa trẻ bị đối xử tệ có khả năng lớn lên thành một người trưởng thành mà sẽ hài lòng với việc có được càng nhiều càng tốt những lạc thú từ cuộc sống.
CON NGƯỜI CỦA DÒNG CHẢY
Những nét đặc trưng chứng tỏ một tính cách có mục đích tự thân được bộc lộ rõ ràng bởi những người có thể thưởng thức những tình huống mà thông thường nhiều người sẽ thấy không chịu đựng nổi. Như khi lạc giữa Nam cực hay bị giam cầm giữa một nhà tù, một vài cá nhân thành công trong việc chuyển đổi những điều kiện khốn khổ của họ thành một cuộc đấu tranh có thể kiểm soát và thậm chí còn thú vị, trong khi hầu hết những người khác sẽ không chịu được thử thách. Richard Logan, người đã nghiên cứu các ghi chép của nhiều người gặp những hoàn cảnh khó khăn, kết luận rằng họ đã sống sót bằng cách tìm kiếm những con đường để biến những điều kiện khách quan ảm đạm thành trải nghiệm chủ quan có thể kiểm soát. Họ thực hiện theo bản thiết kế của các hoạt động dòng chảy. Đầu tiên, họ cực kỳ chú ý đến những chi tiết nhỏ nhất về hoàn cảnh của mình, khám phá ra trong đó những cơ hội tiềm tàng cho hành động phù hợp với những khả năng của họ, căn cứ theo hoàn cảnh. Rồi họ lập ra những mục tiêu thích hợp với tình huống hiểm nghèo của mình và giám sát chặt chẽ quá trình thông qua những phản hồi mà họ nhận được. Bất cứ lúc nào chạm được đến mục tiêu, họ tăng mức đặt cược, tiếp tục đề ra những thách thức phức tạp hơn cho bản thân.
Christopher Burney, một tù nhân của chế độ Phát xít bị biệt giam trong một khoảng thời gian dài suốt Thế chiến thứ hai, nêu lên ví dụ khá điển hình cho quá trình này:
Nếu phạm vi của trải nghiệm đột nhiên bị giới hạn và chúng ta chỉ còn lại một chút thức ăn nuôi dưỡng suy nghĩ hay cảm xúc, chúng ta có khuynh hướng chọn lấy vài đối tượng có sẵn và đặt ra hàng loạt những câu hỏi, thường là khá ngu ngốc, về chúng. Cái này có hoạt động không? Hoạt động như thế nào? Ai đã làm ra nó và làm từ cái gì? Và song song đó là, lần cuối cùng mình nhìn thấy nó là khi nào và ở đâu và nó còn gợi nhớ đến điều gì khác không?… Vậy là chúng ta khởi động một dòng chảy tuyệt vời của sự kết hợp và liên kết trong tâm trí mình, độ dài và sự phức tạp của nó chẳng mấy chốc sẽ xóa mờ xuất phát điểm khiêm tốn của quá trình… Lấy ví dụ là chiếc giường của tôi, nó có thể được so sánh và phân vào loại sơ sài như kiểu giường ở trường học hay trong quân đội… Khi tôi đã xong xuôi với cái giường, thứ vốn quá đơn giản nên không thể khiến tôi hứng thú lâu dài, tôi bắt đầu cảm nhận cái chăn, ước chừng độ ấm của nó, xem xét cơ chế nghiêm ngặt của ô cửa sổ, sự bất tiện của nhà vệ sinh…tính toán chiều dài và chiều rộng, hướng và chiều cao của phòng giam.
Về cơ bản, tính khéo léo tương tự trong việc tìm kiếm cơ hội cho hoạt động tinh thần và thiết lập mục tiêu cũng được trình bày bởi những người sống sót từ bất kỳ nhà tù biệt giam nào, từ những nhà ngoại giao bị khủng bố bắt giữ, cho đến những phụ nữ lớn tuổi bị giam bởi những người cộng sản Trung Hoa. Eva Zeisel, nghệ nhân đồ gốm bị cảnh sát thời Stalin giam ở nhà tù Lubyanka tại Moscow trong hơn một năm, đã giữ mình tỉnh táo bằng cách nghĩ xem mình sẽ làm một chiếc áo lót từ những vật liệu có sẵn như thế nào, cô chơi cờ với chính mình trong đầu, tưởng tượng ra những cuộc đối thoại bằng tiếng Pháp, tập thể dục và học thuộc lòng những bài thơ do chính mình sáng tác. Alexander Solzhenitsyn mô tả cách một trong những người bạn tù của ông ở nhà tù Lefortovo vẽ bản đồ thế giới lên sàn nhà, rồi tưởng tượng chính mình đang du lịch qua châu Á, châu Âu, rồi đến châu Mỹ, tầm vài ki-lô-mét mỗi ngày. “Trò chơi” tương tự được khám phá một cách độc lập bởi rất nhiều tù nhân; chẳng hạn như Albert Speer, kiến trúc sư thân tín của Hitler, đã cố gắng sống trong nhà tù Spandau trong vài tháng bằng cách giả vờ mình đang trong chuyến du lịch đường bộ từ Berlin đến Jerusalem, mà trong đó trí tưởng tượng của ông đã vẽ ra toàn bộ những sự kiện lẫn phong cảnh dọc đường đi.
Một người quen cũ của tôi làm ở cơ quan tình báo không quân Hoa Kỳ kể câu chuyện về một anh phi công bị bắt giam ở miền Bắc Việt Nam trong nhiều năm và đã mất hơn ba mươi sáu kí lô cùng phần lớn sức khỏe của anh tại một đồn trú quân trong rừng. Khi anh được thả, một trong những việc đầu tiên anh muốn làm là chơi một trận gôn. Trước sự ngỡ ngàng của những người đồng đội, anh đã chơi một trận tuyệt vời, bất chấp thể trạng gầy gò của mình. Trước những câu hỏi của họ, anh trả lời rằng khi bị giam, mỗi ngày anh đều tưởng tượng chính mình đang chơi trên sân gôn mười tám lỗ, cẩn thận lựa chọn những cây gậy và tiếp cận, điều chỉnh hướng đi của bóng một cách có hệ thống. Sự rèn luyện trí óc này không chỉ giúp anh giữ được sự tỉnh táo, mà còn giúp những kỹ năng thuộc về thể chất của anh được mài giũa.
Tollas Tibor, một nhà thơ trải qua nhiều năm trong nhà tù biệt giam suốt những giai đoạn hoạt động mạnh mẽ nhất của cộng sản Hungary, đã nói rằng tại nhà tù Visegrád, nơi hàng trăm trí thức bị bắt giam, những người bạn trong tù đã giữ cho mình luôn bận rộn bằng cách nghĩ ra cuộc thi dịch thơ kéo dài hơn một năm. Đầu tiên, họ phải quyết định đâu là bài thơ nên dịch. Mất vài tháng để truyền thông tin bầu chọn cho những ứng cử viên từ phòng này sang phòng khác và thêm vài tháng truyền những tin nhắn bí mật khéo léo trước khi kiểm đếm phiếu bầu. Cuối cùng, người ta cũng đồng ý rằng bài thơ O Captain! My Captain (tạm dịch: Ôi thuyền trưởng! Thuyền trưởng của tôi!) của Walt Whitman là bài sẽ được dịch sang tiếng Hungary, một phần bởi vì nó là bài mà hầu hết những tù nhân có thể nhớ được bản gốc tiếng Anh. Đến đó thì bắt đầu công việc nghiêm túc: mọi người ngồi xuống để viết ra bài thơ với phiên bản của riêng mình. Vì không có sẵn giấy hay dụng cụ viết, Tollas đã phủ một lớp xà phòng lên đế giày và khắc những chữ cái lên đó bằng que tăm. Khi thuộc nằm lòng được một câu thơ, anh phủ đế giày bằng một lớp xà phòng mới. Khi những khổ thơ được viết xong, tự người dịch phải ghi nhớ chúng và truyền đạt sang phòng giam kế tiếp. Sau một thời gian, một tá những phiên bản của bài thơ được lan truyền khắp nhà tù và mỗi bài được đánh giá và bình chọn bởi tất cả những bạn tù. Sau khi các bản dịch bài thơ của Whitman được bình chọn xong, các tù nhân tiếp tục chuyển sang một bài thơ của Schiller.
Khi nghịch cảnh đe dọa làm tê liệt chúng ta, chúng ta cần giành sự kiểm soát bằng cách tìm một hướng đi mới để đầu tư năng lượng tinh thần vào đó, một hướng đi nằm ngoài tầm với của những tác động bên ngoài. Khi mỗi khát vọng vụn vỡ, con người vẫn phải đi tìm một mục tiêu ý nghĩa quanh mình để tổ chức lại cái tôi của họ. Khi đó, dù khách quan người đó có là một nô lệ, thì anh ta cũng tự do một cách chủ quan. Solzhenitsyn mô tả rất chân thực cách mà ngay cả một tình huống tồi tệ nhất cũng có thể biến thành một trải nghiệm dòng chảy: “Thỉnh thoảng, khi đứng xếp hàng với những tù nhân đang tuyệt vọng, giữa tiếng thét của quản ngục trang bị súng máy, tôi cảm thấy sự dồn dập của những nhịp điệu và hình ảnh thoáng qua trong đầu… Vào những khoảnh khắc như vậy, tôi tự do và hạnh phúc. Một vài tù nhân cố gắng vượt ngục bằng cách xông vào hàng dây thép gai. Đối với tôi, chẳng có dây thép gai nào cả. Tôi chẳng vượt ngục, nhưng tôi thực sự đã ở trên một chuyến bay cách đó rất xa”.
Không chỉ các tù nhân thuật lại những chiến lược để vực dậy sự kiểm soát ý thức của họ như vậy. Những nhà thám hiểm như Admiral Byrd, người từng một mình trải qua bốn tháng tăm tối và lạnh lẽo trong một túp lều nhỏ gần Nam cực, hay Charles Lindbergh, đơn độc đối mặt với những yếu tố khắc nghiệt trên chuyến bay vượt Đại Tây Dương của mình, cũng đã viện đến những cách thức tương tự để gìn giữ sự toàn vẹn của chính họ. Thế nhưng điều gì khiến một vài người có thể giữ được sự kiểm soát nội tại, trong khi những người khác lại bị những gian khổ ngoại tại cuốn đi?
Richard Logan đưa ra một câu trả lời dựa trên những ghi chép của nhiều người sống sót, bao gồm cả Viktor Frankl và Bruno Bettelheim, những người đã suy ngẫm về nguồn sức mạnh dưới nghịch cảnh khốn cùng. Ông kết luận rằng đặc tính quan trọng nhất của những người sống sót là “Chủ nghĩa cá nhân không ý thức về bản ngã” (nonself-conscious individualism), hay một mục đích được định hướng một cách mạnh mẽ mà không tự tư tự lợi. Người nào có phẩm chất đó sẽ nhất quyết nỗ lực hết sức trong mọi hoàn cảnh và họ không bận tâm đến việc ưu tiên sở thích riêng của mình. Bởi vì những hành động của họ được thúc đẩy từ bên trong, họ không dễ dàng bối rối trước những mối đe dọa bên ngoài. Với đủ năng lượng tinh thần tự do để quan sát và phân tích những thứ xung quanh một cách khách quan, họ có khả năng tốt hơn để khám phá những cơ hội hành động mới bên trong mình. Nếu chúng ta xem xét có một đặc tính nào đó là yếu tố chủ chốt của tính cách có mục đích tự thân, thì đây có thể là nó. Những cá nhân ái kỷ, những người chủ yếu quan tâm đến việc bảo vệ chính bản thân mình, sẽ sụp đổ khi những điều kiện bên ngoài chuyển sang sự đe dọa. Sự hoảng loạn phát sinh sau đó ngăn cản họ làm những gì phải làm; sự chú ý của họ chuyển hướng vào bên trong trong nỗ lực sắp xếp lại trật tự ý thức, và phần còn lại không đủ để dàn xếp với thực tế bên ngoài.
Không quan tâm đến thế giới này, không có một khát khao gắn kết với nó một cách tích cực, người ta sẽ trở nên cô lập trong chính bản thân mình. Bertrand Russell, một trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong thế kỷ của chúng ta, đã mô tả cách ông đạt được hạnh phúc cá nhân: “Dần dần, tôi đã học được cách dửng dưng với bản thân và sự thiếu sót của mình; tôi bắt đầu tập trung sự chú ý của mình đến những đối tượng bên ngoài hơn: tình trạng của thế giới, những nhánh kiến thức khác nhau, những cá nhân mà tôi cảm nhận được sự ảnh hưởng từ họ”. Về cách xây dựng cho mình một tính cách có mục đích tự thân, chẳng có mô tả ngắn gọn nào tốt hơn những dòng này.
Tính cách như vậy một phần là món quà của sự kế thừa sinh học và giáo dục sớm. Một vài người được sinh ra với một hệ thần kinh linh hoạt và tập trung hơn, hoặc may mắn có cha mẹ thúc đẩy phần cá tính không ý thức thái quá về bản thân. Nhưng nó cũng là một năng lực có thể bồi dưỡng, một kỹ năng mà người ta có thể thành thục thông qua huấn luyện và kỷ luật. Giờ là lúc để khám phá sâu hơn về những cách mà việc này có thể được thực hiện.