Tam Thể 2: Khu Rừng Đen Tối – Lưu Từ Hân - Mở đầu
Kiến Nâu đã quên nơi này từng là nhà nó. Khoảng thời gian đó, đối với mặt đất trong ánh chiều tà và những ngôi sao vừa mọc kia ngắn đến mức có thể bỏ qua không tính, nhưng với nó, lại dài đằng đẵng.
Vào cái ngày đã bị lãng quên ấy, thế giới của nó hoàn toàn đảo lộn. Bùn đất bay đi, một cái khe vừa sâu vừa rộng xuất hiện, sau đó bùn đất lại âm ầm bay ngược trở về, khe sâu biến mất, ở tận cùng cái khe ban đầu ấy xuất hiện một ngọn núi lẻ loi màu đen. Kỳ thực, trên vùng đất mênh mông này, đây là chuyện thường xuyên xảy ra, bùn đất bay đi rồi bay về, khe sâu xuất hiện rồi biến mất, sau đó là một ngọn núi mọc lên, dường như để đánh dấu mỗi lần biến cố xảy ra. Kiến Nâu và mấy trăm đồng loại đưa theo Kiến Chúa may mắn sống sót đi một quãng đường về phía Mặt trời lặn, xây dựng nên đế quốc mới.
Lần này, Kiến Nâu về vùng đất cũ chỉ là tình cờ đi ngang qua trên đường kiếm thức ăn mà thôi. Nó đi tới dưới chân ngọn núi, dùng sợi râu xúc giác chạm vào thứ cao chọc trời ấy, phát hiện ra bề mặt ngọn núi tuy cứng và trơn tuột nhưng có thể bò lên được, nó bèn bò lên phía trên. Nó chẳng có mục đích gì cả, chỉ là một lần nhiễu động ngẫu nhiên của mạng lưới thần kinh thô sơ nhỏ bé kia gây ra. Nhiễu động có thể hiện ra ở bất cứ đâu, ở mỗi nhành cỏ trên mặt đất và mỗi giọt sương trên lá cỏ, mỗi áng mây trên bầu trời và mỗi ngôi sao phía sau áng mây ấy… Mọi nhiễu động đều không có mục đích, song khi một lượng lớn những nhiễu động vô mục đích tập trung lại, mục đích liền xuất hiện.
Kiến Nâu cảm nhận được chấn động của mặt đất, dựa trên độ rung chuyển từ yếu chuyển sang mạnh dần, nó biết trên mặt đất có một thực thể khổng lồ khác đang chuyển động về phía này, tuy nhiên nó không để ý mà vẫn tiếp tục bò lên ngọn núi lẻ loi kia. Trong không gian góc vuông giữa chân núi và mặt đất có một mạng nhện, Kiến Nâu biết đó là thứ gì, nó cẩn thận vòng tránh đám tơ nhện dính trên vách núi dựng đứng, đi qua bên cạnh con nhện đang co hết chân lại lặng lẽ chờ đợi chấn động trên màng tơ ấy. Cả hai đều cảm nhận được sự tồn tại của đối phương, nhưng cũng giống như một trăm triệu năm đã trôi qua trước đó, hai bên không có bất cứ sự trao đổi nào.
Chấn động đạt đến đỉnh điểm liền ngừng lại, thực thể khổng lồ kia đã đến phía trước ngọn núi, Kiến Nâu thấy thực thể này còn cao hơn ngọn núi rất nhiều, che lấp cả một khoảng trời thật lớn. Kiến Nâu chẳng hề xa lạ với loài này, nó biết thứ đó là vật sống, thường xuyên lộ diện ở vùng lãnh thổ này, những khe sâu xuất hiện rồi nhanh chóng biến mất cùng với những ngọn núi mọc lên càng lúc càng nhiều kia đều có liên quan mật thiết đến thực thể đó.
Kiến Nâu tiếp tục bò lên trên, nó biết loài kia thông thường sẽ không đe dọa đến mình – dĩ nhiên là cũng có ngoại lệ. Ngoại lệ này đã xảy ra với con nhện ở phía bên dưới, thực thể kia hiển nhiên đã phát hiện ra mạng nhện vắt giữa mặt đất và ngọn núi, bèn dùng cuống bó hoa đang cầm trên một chi hất đi, con nhện cùng với đám tơ đứt lìa rơi vào bãi cỏ. Sau đó, thực thể kia nhẹ nhàng đặt bó hoa xuống trước ngọn núi.
Lúc này, một chấn động khác xuất hiện, rất yếu ớt, nhưng cũng đang mạnh dần lên. Kiến Nâu biết, một đồng loại khác của thực thể kia đang di chuyển về phía ngọn núi. Cùng lúc ấy, trên vách núi dựng đứng, nó gặp một cái rãnh dài trước mặt, so với bề mặt vách núi thì đáy rãnh này thô ráp hơn một chút, màu sắc cũng khác, có màu trắng xám, nó bò men theo cái rãnh, bề mặt gồ ghề khiến nó leo dễ hơn nhiều. Hai đầu rãnh đều có thêm một rãnh nhỏ và ngắn. Rãnh nhỏ ở đầu bên dưới vuông góc với rãnh chính, rãnh nhỏ ở đầu bên trên thì giao nhau với rãnh chính tạo thành một góc nhọn. Khi Kiến Nâu leo lên trở lại bề mặt màu đen trơn trượt của vách đá dựng đứng, ấn tượng của nó về hình dạng chỉnh thể của cái rãnh này là: “1”.
Bấy giờ, thực thể sống ở trước mặt ngọn núi kia bỗng nhiên thấp đi một nửa, thành ra tương đương với độ cao của ngọn núi, hiển nhiên là “kẻ đó” đã ngồi xuống, trên khoảng trời màu lam sẫm vừa lộ ra ấy, các ngôi sao đã lơ thơ ló dạng. Cặp mắt kẻ đó đang nhìn thẳng vào phần trên ngọn núi, Kiến Nâu hơi do dự, quyết định tốt nhất là không nên tiến vào tầm nhìn của đối phương, bèn chuyển hướng bò song song với mặt đất. Rất nhanh, nó gặp một cái rãnh khác. Nó rất yêu mến bề mặt thô ráp dưới đáy rãnh, vì cảm giác bò trên đó rất dễ chịu, đồng thời màu sắc dưới đáy rãnh cũng làm nó liên tưởng đến những quả trứng kiến xung quanh Kiến Chúa. Bởi vậy nó không ngại quay đầu bò xuống dưới, men theo cái rãnh bò khắp một lượt. Hình dạng cái rãnh này phức tạp hơn, quành trọn một vòng xong lại vươn xuống dưới một đoạn, khiến nó nghĩ đến quá trình sau khi tìm kiếm thông tin về mùi vị rốt cuộc cũng tìm ra được đường về nhà, Kiến Nâu dựng lên hình dạng cái rãnh trong mạng lưới thần kinh của mình: “9”.
Hiện tại, vật sống ngồi xổm trước ngọn núi đang phát ra âm thanh, những lời hoàn toàn vượt xa khỏi năng lực lý giải của Kiến Nâu đó là:
“Bản thân sự sống đã rất kỳ diệu, ngay cả đạo lý này mà cũng không hiểu nổi thì làm sao có thể tìm tòi những thứ sâu sắc hơn nữa chứ?”
Kẻ đó phát ra âm thanh như thể không khí lưu động khi có cơn gió thổi xuyên qua bụi cỏ, đó là tiếng thở dài, sau đó đứng dậy.
Kiến Nâu tiếp tục bò theo phương song song với mặt đất, tiến vào cái rãnh thứ ba, là một đường gấp khúc gần như vuông góc: “7”. Kiến Nâu không thích hình dạng này, theo lẽ thường, chuyển hướng đột ngột kiểu này lúc nào cũng đồng nghĩa với nguy hiểm và chiến đấu.
Tiếng nói át cả chấn động, đến giờ Kiến Nâu mới cảm giác được thực thể sống thứ hai kia đã đến phía trước ngọn núi, vật sống đầu tiên đứng dậy chính là để đón tiếp vật thể này. Vật sống thứ hai này thấp nhỏ, gầy gò hơn vật sống đầu tiên rất nhiều, mái tóc bạc trắng trông nổi bật trên nền trời chiều màu lam sẫm, mớ tóc màu bạc phất phơ trong làn gió nhẹ ấy dường như có mối liên hệ nào đó với những ngôi sao mỗi lúc một nhiều trên bầu không.
“Cô giáo Diệp, cô… Cô đến ạ?”
“Cậu là… Tiểu La phải không?”
“Em là La Tập, bạn học cấp ba của Dương Đông, cô…”
“Hôm ấy biết được chỗ này, cảm thấy rất được, ngồi xe tới cũng tiện, nên dạo này tôi thường hay đến đây tản bộ.”
“Cô giáo Diệp, cô chớ nên đau buồn.”
“Ừm, đều đã qua rồi…”
Kiến Nâu ở trên ngọn núi vốn định chuyển hướng bò lên phía trên, nhưng nó phát hiện phía trước vẫn còn một cái rãnh nữa, giống hệt như cái rãnh hình “9” mà nó đã bò qua trước rãnh hình “7”, nó cũng rất thích hình dạng này. Kiến Nâu bèn bò tiếp theo phương ngang, men theo rãnh “9” mới bò một lượt. Nó cảm thấy hình dạng này tốt hơn “7” và “1”, nhưng tốt ở đâu thì tất nhiên không thể diễn đạt ra được, đây là năng lực cảm thụ cái đẹp ở trạng thái đơn bào nguyên thủy; niềm vui thích mơ hồ khi bò qua rãnh “9” vừa nãy lại được tăng cường, đây là hạnh phúc ở trạng thái đơn bào nguyên thủy. Song hai hình thức tinh thần đơn bào này không có cơ hội tiến hóa, hiện tại vẫn giống như một trăm triệu năm trước, cũng giống như một trăm triệu năm sau.
“Tiểu La à, Đông Đông thường nhắc đến cậu, nó nói cậu… nghiên cứu thiên văn học phải không?”
“Hồi trước thôi ạ, giờ em đang dạy ngành xã hội học ở trường đại học, chính là trường của cô đấy ạ, nhưng lúc em về trường thì cô đã nghỉ hưu rồi.”
“Xã hội học, khác như vậy cơ à?”
“Vâng, Dương Đông lúc nào cũng bảo tính em rất thiếu tập trung.”
“Ô, chẳng trách mà nó khen cậu rất thông minh.”
“Thông minh vặt thôi ạ, không cùng một cấp độ với con gái cô đâu. Chỉ là em cảm giác ngành thiên văn giống như một tấm sắt vậy, muốn khoan một lỗ ở chỗ nào cũng khó khăn; trong khi xã hội học thì như tấm ván gỗ, dẫu sao cũng tìm được những chỗ mỏng hơn một chút mà đâm vào, nói chung là dễ sống tạm bợ qua ngày hơn.”
Ôm theo hy vọng gặp thêm một rãnh “9” nữa, Kiến Nâu tiếp tục đi ngang, nhưng nó lại gặp một đường rãnh thẳng tắp song song với mặt đất, giống như cái rãnh đầu tiên đặt nằm ngang, nhưng cái rãnh này dài hơn “1”, hai đầu không có rãnh nhỏ, hình dạng tổng thể là “—”.
“Đừng nên nói vậy, cuộc sống của người bình thường chính là vậy mà, ai cũng giống như Đông Đông thì làm sao được.”
“Con người em quả thực là không có chí lớn gì, bộp chộp lắm.”
“Tôi có một đề nghị thế này: tại sao cậu không nghiên cứu xã hội học vũ trụ nhỉ?”
“Xã hội học vũ trụ?”
“Một danh từ mà tôi thuận miệng nói ra thôi, tức là giả định rằng có vô số nền văn minh khác nhau phân bố trong vũ trụ, số lượng cũng ngang ngửa với số hành tinh mà chúng ta có thể quan sát được, nhiều vô cùng tận, tổng thể những nền văn minh này tạo thành một xã hội vũ trụ, xã hội học vũ trụ chính là ngành nghiên cứu hình thái của cái siêu xã hội này.”
Trên ngọn núi, Kiến Nâu tiếp tục bò ngang một quãng không xa, mong đợi khi bò qua cái rãnh hình “—” này sẽ lại tìm thấy một cái rãnh hình “9” mà nó thích, tuy nhiên nó lại gặp rãnh hình “2”. Nửa đầu tuyến đường này rất dễ chịu, hiềm nỗi góc ngoặt gấp phía sau lại đáng sợ như rãnh “7” ở phía trước, gần như là một điềm báo chẳng lành. Kiến Nâu tiếp tục bò ngang, cái rãnh tiếp theo có hình dạng khép kín “0”. Lộ trình này là một phần của “9”, nhưng lại là một cái bẫy: cuộc sống cần phẳng lặng trơn tru, song cũng cần có phương hướng, không thể nào cứ mãi trở về khởi điểm, Kiến Nâu hiểu được điều này. Tuy rằng phía trước vẫn còn hai đường rãnh nữa, nhưng nó đã không còn hứng thú tìm hiểu, bèn xoay người bò lên phía trên.
“Nhưng… hiện tại mới chỉ biết có một nền văn minh của chúng ta thôi mà.”
“Chính vì vậy nên mới không ai làm việc này, để cho cậu một cơ hội đó.”
“Cô giáo Diệp, có vẻ thú vị lắm! Cô nói tiếp đi ạ.”
“Tôi nghĩ thế là vì có thể kết hợp hai chuyên ngành của cậu với nhau, so với xã hội học nhân loại, xã hội học vũ trụ có cấu trúc toán học rất rõ ràng.”
“Sao lại nói như vậy ạ?”
Diệp Văn Khiết chỉ lên trời, ánh hoàng hôn phía Tây vẫn rất sáng, số lượng sao trên bầu không ít đến mức có thể dễ dàng đếm được. Điều này dễ khiến người ta hồi tưởng đến bầu trời lúc chưa có vì sao nào xuất hiện, cõi hư không màu lam ấy là cả một cõi mênh mang mơ hồ, giống như đôi mắt không có con ngươi của bức tượng bằng đá cẩm thạch. Giờ đây, mặc dù tinh tú thưa thớt, nhưng đôi mắt khổng lồ ấy đã có con ngươi. Hư không đã có nội dung, vũ trụ đã có thị giác. Thế nhưng, so với cả không gian, các ngôi sao đều thật nhỏ bé, chỉ là những chấm nhỏ màu bạc lúc ẩn lúc hiện, tựa hồ như ngầm chỉ ra một nỗi bất an nào đó của nhà điêu khắc vũ trụ: ông ta (hoặc cái đó) không thể kiềm chế nổi ham muốn điểm mắt cho vũ trụ, song đồng thời cũng ôm trong lòng nỗi sợ hãi khủng khiếp nào đó đối với hành vi ấy, cuối cùng, sự vĩ đại của không gian và sự nhỏ bé của tinh tú chính là kết quả cân bằng giữa ham muốn và nỗi sợ hãi này, thể hiện một sự cẩn trọng vượt trên tất thảy.
“Cậu hãy nhìn xem, mỗi ngôi sao như một điểm trong hình học, cấu trúc phức tạp của các nền văn minh trong vũ trụ, rồi những nhân tố hỗn loạn và ngẫu nhiên trong đó đều bị khoảng cách lớn lao nhường ấy lọc đi hết, những nền văn minh ấy trong mắt chúng ta chính là những điểm có tham số, vậy thì tương đối dễ xử lý bằng toán học rồi.”
“Nhưng mà, cô giáo Diệp à, ngành xã hội học vũ trụ mà cô nói vốn chẳng có dữ liệu thực tế nào khả dĩ cung cấp cho nghiên cứu cả, cũng không thể tiến hành khảo sát và thực nghiệm được.”
“Vì vậy thành quả cuối cùng của cậu sẽ là thuần lý thuyết, cũng như hình học Euclid vậy, trước tiên đặt ra mấy tiên đề đơn giản không cần chứng minh, kế đó dựa trên cơ sở những tiên đề này để suy luận ra toàn bộ hệ thống lý thuyết.”
“Cô giáo Diệp, chuyện này… thật sự quá lý thú, nhưng tiên đề của xã hội học vũ trụ là gì?”
“Thứ nhất, sinh tồn là nhu cầu trên hết của một nền văn minh; thứ hai, thế giới văn minh không ngừng phát triển và mở rộng, nhưng tổng lượng vật chất trong vũ trụ là không đổi.”
Kiến Nâu bò lên một quãng không xa, mới biết hóa ra phía trên cũng có rãnh, vả lại còn là tổ hợp nhiều rãnh sâu, kết cấu phức tạp như mê cung. Kiến Nâu rất nhạy cảm với hình dạng, nó tự tin có thể làm rõ hình dạng này, nhưng muốn thế trước tiên phải quên hết những hình mà nó đã bò qua trước đó, vì dung lượng lưu trữ trong mạng lưới thần kinh nhỏ bé của nó chỉ có hạn. Lúc quên mất “9”, nó không cảm thấy tiếc nuối gì, bởi không ngừng quên đi chính là một phần cuộc sống của nó, những thứ nó cần nhớ suốt đời không nhiều, tất cả đều đã được gen ghi khắc lên khu vực lưu trữ được gọi là bản năng kia rồi.
Sau khi làm sạch ký ức, nó đi vào mê cung, sau một hồi bò ngoằn ngoèo qua lại, nó dựng lên trong ý thức đơn sơ của mình hình dạng tổ hợp rãnh ấy: “墓” (mộ). Tiếp tục bò lên, lại là một tổ hợp của nhiều rãnh, so với cái trước thì đơn giản hơn nhiều, tuy nhiên Kiến Nâu vẫn buộc phải làm sạch ký ức, quên đi “mộ” để thăm dò nó. Thoạt tiên, nó bò vào một cái rãnh cong lả lướt, khiến nó nhớ đến cái bụng của con dế vừa mới chết mà nó phát hiện ra ban nãy. Nó nhanh chóng làm rõ được kết cấu của cái rãnh này: “之” (chi). Trên đường leo lên đỉnh sau đó, Kiến Nâu lại gặp hai tổ hợp đường rãnh. Cái đầu tiên gồm hai rãnh hình dạng như giọt nước và một rãnh hình dạng như bụng dế – “冬”(Đông); cái trên cùng chia thành hai phần, tổ hợp lại là: “扬” (Dương) (“Dương Đông chi mộ” nghĩa là “mộ của Dương Đông”). Đây là hình dạng cuối cùng mà Kiến Nâu ghi nhớ, cũng là hình dạng duy nhất mà nó nhớ được sau hành trình leo đỉnh núi này, nó đã quên sạch những hình dạng thú vị bò qua trước đó rồi.
“Cô giáo Diệp, từ góc độ xã hội học, hai tiên đề này đều vững chắc… Cô nói ra nhanh như vậy, dường như trong lòng đã chắc chắn từ lâu rồi thì phải.” La Tập hơi ngạc nhiên thốt lên.
“Tôi đã nghĩ về nó hơn nửa đời người, nhưng quả thực đây là lần đầu tiên nhắc đến với người khác, thật tình, tôi cũng không biết tại sao nữa… À, muốn từ hai tiên đề này suy luận ra bức tranh cơ bản của ngành xã hội học vũ trụ, còn cần đến hai khái niệm quan trọng: chuỗi ngờ vực và bùng nổ công nghệ”.
“Hai từ rất thú vị, cô có thể giải thích một chút được không ạ?”
Diệp Văn Khiết xem đồng hồ: “Không còn thời gian nữa, thực ra, cậu thông minh như vậy, tự mình cũng có thể nghĩ ra. Trước tiên có thể dựa vào hai tiên đề vừa rồi mà bắt tay sáng lập ra ngành khoa học mới này, vậy là cậu có khả năng trở thành Euclid của ngành xã hội học vũ trụ rồi đó.”
“Cô giáo Diệp, em không trở thành Euclid được đâu, nhưng em sẽ nhớ kỹ lời cô, làm thử xem sao, sau này có lẽ em sẽ còn đến xin cô chỉ dạy.”
“Sợ là không còn cơ hội ấy nữa… hoặc là, cậu cứ coi như tôi nói linh tinh cũng được, dù thế nào chăng nữa, tôi cũng đã làm hết trách nhiệm rồi. Thôi, Tiểu La này, tôi đi đây.”
“… Cô giáo Diệp, cô giữ gìn sức khỏe.”
Diệp Văn Khiết rời khỏi đó trong ánh tà dương, đi tới cuộc họp cuối cùng của bà ta.
Kiến Nâu leo lên tiếp, tiến vào một hố tròn trên vách đá dựng đứng, trên bề mặt trơn nhẵn bên trong hố tròn có một hình ảnh cực kỳ phức tạp, nó biết mạng lưới thần kinh bé nhỏ của mình tuyệt đối không thể nào lưu trữ được thứ đó, nhưng sau khi tìm hiểu đại thể hình ảnh ấy, nó lại có cảm giác giống như với “9”, năng lực cảm thụ cái đẹp ở trạng thái đơn bào nguyên thủy lại được đánh thức. Hơn thế, nó dường như còn nhận ra được một phần hình ảnh ấy, đó là một đôi mắt, ít nhiều nó cũng có đôi chút nhạy cảm với hình ảnh con mắt, vì bị con mắt nhìn chằm chằm đồng nghĩa với nguy hiểm. Tuy vậy, lúc này nó chẳng lo lắng gì, bởi nó biết đôi mắt này không hề có sự sống. Nó đã quên mất tình cảnh lúc thực thể khổng lồ tên là La Tập kia ngồi xổm xuống nhìn đăm đăm vào phía trên ngọn núi trước khi phát ra âm thanh đầu tiên, lúc đó, thứ anh ta đang nhìn chính là đôi mắt này. Tiếp theo, nó bò ra khỏi hố tròn, leo lên đỉnh núi. Ở nơi này, nó không hề có cảm giác “đăng cao viễn vọng”, vì nó vốn chẳng sợ bị rơi từ trên cao xuống đất. Nó từng nhiều lần bị gió thổi rơi xuống từ những chỗ cao hơn ngọn núi này nhiều, nhưng hoàn toàn không hề tổn thương, không có nỗi sợ độ cao thì không thể thấm thía được vẻ đẹp từ trên đỉnh cao nhìn xuống.
Dưới chân ngọn núi, con nhện bị La Tập dùng cành hoa hất đi bắt đầu dệt một tấm mạng mới, nó kéo từ trên vách đá xuống một sợi tơ óng ánh, thả mình xuống mặt đất tựa như con lắc đồng hồ, lặp đi lặp lại như thế ba lần, cái khung của tấm mạng đã hoàn thành. Mạng nhện bị phá hoại mười nghìn lần, nó sẽ đan lại cả mười nghìn lần. Với quá trình này, nó hoàn toàn không có cảm giác chán ghét hay tuyệt vọng, song cũng không hề có lạc thú, từ một trăm triệu năm trước đã luôn như thế rồi.
La Tập lặng lẽ đứng một lúc, rồi cũng đi. Khi chấn động trên mặt đất tan biến, Kiến Nâu bò xuống phía bên kia ngọn núi, nó cần trở về tổ báo cáo vị trí của con dế đã chết kia. Tinh tú trên trời bắt đầu dày hơn, dưới chân ngọn núi, Kiến Nâu lại đi lướt qua con nhện, bọn chúng một lần nữa cảm giác được sự tồn tại của kẻ kia, nhưng vẫn không có giao lưu nào.
Kiến Nâu và nhện không hay biết, tại thời điểm tiên đề về văn minh vũ trụ được sinh ra, ngoài cái thế giới xa xăm đang nín thở lắng nghe kia, trong số sự sống trên Trái đất, bọn chúng chính là những nhân chứng duy nhất.
Trước đó một thời gian, đêm khuya, Mike Evans đứng ở mũi con tàu Ngày Phán Xét, dưới bầu trời sao, Thái Bình Dương tựa như một tấm lụa đen khổng lồ trượt qua bên dưới. Evans thích đối thoại với thế giới xa xôi kia vào thời điểm này, vì trên nền trời sao và biển đêm, những con chữ mà Hạt trí tuệ in ra trên võng mạc hiển thị rất nổi bật.
Đây là cuộc đối thoại thời gian thực thứ hai mươi hai của chúng ta, chúng ta đang gặp phải một vài khó khăn trong việc trao đổi thông tin.
Evans: “Vâng thưa Chúa, tôi phát hiện ra, thực tế là ngài không hiểu một phần không nhỏ trong các tài liệu về văn hiến của loài người mà chúng tôi gửi đi.”
Đúng vậy, các người đã giải thích rất rõ ràng mọi yếu tố trong đó, nhưng về mặt tổng thể vẫn không thể hiểu được, dường như nguyên nhân là bởi thế giới của các người có thừa thứ gì đó so với thế giới của chúng ta, nhung có lúc lại giống như thiếu đi thứ gì đó.
Evans: “Thứ thừa và thiếu này, có phải là một hay không?”
Đúng vậy, chúng ta không biết là thừa hay là thiếu.
Evans: “Đó có thể là thứ gì chứ?”
Chúng ta đã nghiên cứu văn hiến của các người một cách tỉ mỉ, phát hiện mấu chốt gây khó hiểu nằm ở một cặp từ đồng nghĩa.
Evans: “Từ đồng nghĩa?”
Trong ngôn ngữ của các người có rất nhiều từ đồng nghĩa và từ gần nghĩa, ví dụ như trong tiếng Trung mà chúng ta nhận được lúc ban đầu đã có “rét” và “lạnh”, “lớn” và “to”, “dài” và “lâu”…, chúng biểu đạt ý nghĩa giống nhau.
Evans: “Vậy cặp từ đồng nghĩa gây ra trở ngại trong cách hiểu mà Chúa vừa nói là gì?”
“Nghĩ” và “nói”, chúng ta vừa kinh ngạc phát hiện, hóa ra chúng không phải là từ đồng nghĩa.
Evans: “Hai từ này vốn dĩ không đồng nghĩa mà.”
Theo cách hiểu của chúng ta, hai từ này phải là từ đồng nghĩa: Nghĩ, tức là dùng cơ quan tư duy để tiến hành hoạt động tư duy; nói, tức là truyền đạt cho đồng loại nội dung minh tư duy. Ở thế giới của các người, hành dộng thứ hai được thực hiện bằng một cơ quan gọi là dây thanh đới, cơ quan này diều chỉnh sự rung động của không khí để phát ra âm thanh. Ngươi thấy định nghĩa như vậy có chính xác hay không?
Evans: “Chính xác, nhưng chẳng phải như thế đã thể hiện rõ, ‘nói’ và ‘nghĩ’ không phải là từ đồng nghĩa hay sao?”
Theo cách hiểu của chúng ta, diều này chứng tỏ rằng chúng là từ đồng nghĩa.
Evans: “Chúa có thể cho tôi suy nghĩ một chút được không?”
Được, chúng ta đều cần phải suy nghĩ.
Evans nhìn mặt biển cuộn sóng dưới ánh sáng của các vì sao, ngẫm nghĩ chừng hai phút.
Evans: “Chúa của tôi, cơ quan dùng để trao đổi thông tin của các ngài là gì?”
Chúng ta không có cơ quan trao đổi thông tin, bộ não của chúng ta có thể hiển thị tư duy ra với thế giới bên ngoài, vậy là đã hoàn thành việc trao đổi thông tin.
Evans: “Hiển thị tư duy. Điều này thực hiện bằng cách nào?
Sóng điện từ mà bộ não phát ra khi tư duy, bao gồm cả các bước sóng ánh sáng nhìn thấy được dối với giác quan của chúng ta, có thể hiển thị ở khoảng cách tương đối xa.
Evans: “Có nghĩa là, đối với các ngài, nghĩ tức là nói.”
Nên mới nói rằng chúng là từ đồng nghĩa.
Evans: “Ồ… nhưng dù là thế, hẳn cũng sẽ không gây ra trở ngại với việc đọc hiểu tài liệu về văn hiến.”
Đúng thế, sự khác nhau giữa chúng ta và các người trên phương diện tư duy và trao đổi thông tin không lớn lắm, chúng ta đều có bộ não. Vả lại, bộ não đều sinh ra trí năng bằng cách kết nối vô số neuron lại với nhau, điểm khác nhau duy nhất là sóng điện não của chúng ta mạnh hơn, có thể được đồng loại thu nhận trực tiếp, vì vậy mà lược bỏ đi cơ quan trao đổi thông tin, chỉ khác có một điểm đó mà thôi.
Evans: “Không, trong đây có thể còn ẩn giấu một sự khác nhau lớn hơn nữa. Chúa của tôi, xin hãy để tôi nghĩ thêm một lúc nữa.”
Được.
Evans rời khỏi mũi tàu, thả bước tản bộ trên boong, ngoài mạn tàu, Thái Bình Dương vẫn lặng lẽ nhấp nhô trong màn đêm, y tưởng tượng biển cả biến thành một bộ não đang tư duy.
Evans: “Chúa của tôi, tôi muốn kể cho ngài nghe một câu chuyện nhỏ, để chuẩn bị, ngài có hiểu những yếu tố dưới đây hay không: sói, trẻ con, bà ngoại, ngôi nhà nhỏ trong rừng?”
Đây đều là những yếu tố rất dễ hiểu, chỉ có chút vấn đề ở “bà ngoại”, ta biết đây là một quan hệ huyết thống của loài người, thông thường tuổi của “bà ngoại” tương đối lớn. Ta vẫn cần ngươi giải thích thêm về vị trí của bà ta trong hệ thống quan hệ huyết thống.
Evans: “Thưa Chúa, vấn đề này không quan trọng. Ngài chỉ cần biết rằng mối quan hệ giữa bà ta và bọn trẻ con rất gắn bó, bà ta là một trong những người mà lũ trẻ con tin cậy nhất.”
Đã hiểu.
Evans: “Tôi đã giản lược câu chuyện đi một chút: Bà ngoại có việc phải ra ngoài, để lũ trẻ con lại trong căn nhà nhỏ, dặn dò bọn chúng nhất định phải đóng chặt cửa, ngoài bà ra thì không được mở cửa cho người khác. Trên đường, bà ngoại gặp phải chó sói, con sói ăn thịt bà ngoại, rồi mặc quần áo của bà, giả mạo làm bà ngoại đi đến căn nhà nhỏ gõ cửa. Con sói bảo lũ trẻ con trong nhà rằng, bà là bà ngoại của các cháu đây, bà về rồi, mở cửa cho bà đi. Lũ trẻ con nhìn qua khe cửa thấy nó giống bà ngoại, liền mở cửa ra, con sói vào nhà ăn thịt luôn cả lũ trẻ con. Thưa Chúa, ngài có thể hiểu được câu chuyện này không?”
Hoàn toàn không thể hiểu nổi.
Evans: “Vậy có lẽ tôi đã đoán đúng rồi.”
Trước tiên, con sói từ đầu đã muốn vào căn nhà nhỏ ăn thịt lũ trẻ con, phải không?
Evans: “Vâng.”
Nó và lũ trẻ con đã tiến hành trao đổi thông tin, đúng không?
Evans: “Đúng vậy.”
Đến đây thì không thể hiểu được nữa, để đạt được mục đích của mình, nó không nên tiến hành trao đổi thông tin với lũ trẻ con.
Evans: “Tại sao?”
Rất rõ ràng rồi còn gì? Nếu hai bên thực hiện trao ỡổi thông tin, lũ trẻ con lập tức sẽ biết con sói muốn vào nhà ăn thịt chúng nó, tất nhiên sẽ không mở cửa cho con sói.
Evans (trầm ngâm hồi lâu): “Tôi hiểu rồi, thưa Chúa, tôi đã hiểu rồi.”
Ngươi hiểu được gì? Chẳng phải tất cả những thứ này đều rất rõ ràng hay sao?
Evans: “Tư duy của các ngài hoàn toàn bộc lộ ra với thế giới bên ngoài, không thể che giấu được.”
Tư duy làm sao có thể che giấu được? Cách nghĩ này của ngươi thật là không thể tưởng tượng nổi.
Evans: “Có nghĩa là, đối với thế giới bên ngoài, tư duy và ký ức của các ngài hoàn toàn trong suốt, giống như một cuốn sách đặt ở nơi công cộng, hoặc như một bộ phim đang chiếu giữa quảng trường, hay một con cá ở trong bể cá thủy tinh vậy, bộc lộ hết ra ngoài, có thể nhìn rõ mọi ngóc ngách từ bên ngoài. À, một số yếu tố mà tôi vừa nói đến, có thể là ngài…”
Ta đều hiểu được, nhưng tất cả chuyện này rất tự nhiên mà?
Evans (trầm ngâm hồi lâu): “Thì ra là thế… Chúa của tôi, khi các ngài đối diện với nhau để trao đổi thông tin, mọi thông tin được trao đổi ấy đều chân thực, không thể nào lừa gạt, không thể nào dối trá, vậy thì các ngài sẽ không thể nào có tư duy chiến lược phức tạp được.”
Không chỉ là đối diện, chúng ta có thể trao đổi thông tin ở khoảng cách tương đối xa. Ngoài ra, bấy lâu nay chúng ta vẫn không thể hiểu nổi hai từ “lừa gạt” và “dối trá” này.
Evans: “Một xã hội mà tư tưởng hoàn toàn phơi bày thì sẽ như thế nào? Sẽ sản sinh ra nền văn hóa, chính trị như thế nào? Các ngài không có mưu kế, không thể nào ngụy trang được.”
Mưu kế là gì, ngụy trang là gì?
Evans: …
Cơ quan trao đổi thông tin của loài người chẳng qua là một thiếu sót trong ouá trình tiến hóa mà thôi, đó là công cụ bất đắc dĩ để bù đắp lại việc bộ não của các người không thể sinh ra sóng điện tư duy mạnh, một bất lợi về mặt sinh học của giống người. Trực tiếp hiển thị tư duy ra ngoài, hiển nhiên là phương thức trao đổi thông tin cao cấp hơn, có hiệu suất cao hơn gấp bội.
Evans: “Thiếu sót? Bất lợi? Không, Chúa của tôi, ngài nhầm rồi, lần này thì ngài đã hoàn toàn nhầm lẫn rồi.”
Vậy sao? Để ta nghĩ một chút, thật đáng tiếc, ngươi lại không thể nhìn thấy tư tưởng của ta.
Lần này, cuộc đối thoại bị gián đoạn tương đối lâu, phải đến hai mươi phút hàng chữ không hiện lên, Evans đã đi từ mũi tàu đến đuôi tàu. Y thấy một đàn cá không ngừng nhảy lên khỏi mặt nước, vạch vào khoảng không trên mặt biển một đường cong lấp lánh sắc bạc dưới ánh sao. Mấy năm trước, để khảo sát ảnh hưởng của việc đánh bắt quá độ đối với các sinh vật ven biển, y từng sống một thời gian trên thuyền cá ở phía Nam, các ngư dần gọi cảnh tượng này là: “Quân lính Long vương đi tuần”, hiện giờ, Evans cảm thấy cảnh tượng đó rất giống một hàng chữ chạy trên con mắt biển khổng lồ. Đúng lúc này, hàng chữ trong mắt y cũng xuất hiện.
Ngươi nói đúng, glờ nghĩ lại những tài liệu văn hiến kia, ta đã hơi hiểu một chút rôì.
Evans: “Chúa của tôi, ngài muốn thực sự hiểu được những thứ ấy của loài người thì còn phải đi một chặng đường rất dài, tôi thậm chí còn nghi ngờ, rốt cuộc ngài có thể hiểu được hay không nữa.”
Đúng thế, thật sự là quá phức tạp, giờ ta chỉ hiểu ra tạt sao trước đây mình không hiểu nổi… Ngươi nói đúng.
Evans: “Chúa của tôi, ngài cần đến chúng tôi.”
Ta sợ các người.
Cuộc đối thoại bị ngắt, đây là lần cuối cùng Evans nhận được thông tin từ thế giới Tam Thể. Lúc này, y đứng ở đuôi tàu, nhìn vệt sóng trắng xóa sau đuôi con tàu Ngày Phán Xét vươn dần vào màn đêm mông lung, tựa như dòng thời gian đang trôi đi.