Chó Sủa Nhầm Cây - Eric Barker - Chương 1
- Home
- Chó Sủa Nhầm Cây - Eric Barker
- Chương 1 - Có nên thận trọng và vâng lời nếu muốn thành công?
Phải chăng cứ chơi theo luật là có thành quả xứng đáng? Sự thật từ những thủ khoa, những người không biết đau đớn, và thần đồng dương cầm.
Ashlyn Blocker không cảm thấy đau.
Sự thật là cô chưa bao giờ cảm thấy đau. Trong mắt mọi người, cô chỉ là một cô gái tuổi teen bình thường, nhưng do một khiếm khuyết trong gene SCN9A, thần kinh của cô không hoạt động giống như bạn hoặc tôi. Tín hiệu đau đớn không thể đến được não của Ashlyn.
Nghe như phép màu trời cho hả? Gượm đã. Trang Wikipedia nói về “Chứng vô cảm bẩm sinh với cơn đau” viết rất đơn giản: “Đây là một tình trạng cực kỳ nguy hiểm, Dane Inouye viết, “Hầu hết trẻ em đều mơ ước trở thành siêu anh hùng. Bệnh nhân CIPA (“Congenital insensitivity to pain with anhidrosis” – vô cảm bẩm sinh với cơn đau) có thể được xem như Superman vì không cảm thấy cơn đau thể chất, nhưng trớ trêu thay, thứ cho họ ‘siêu năng lực’ cũng chính là đá kryptonite1 của họ”.
1 [Người dịch—ND] Đá kryptonite là khắc tính của Superman. Chỉ tiếp xúc với đá kryptonite, Superman mất hết sức mạnh.
Theo bài viết của Justin Heckert trên tạp chí New York Times, cha mẹ của Ashlyn phát hiện cô bị vỡ mắt cá chân trước cả khi bản thân cô nhận ra, trong khi nó đã xảy ra từ 2 ngày trước. Karen Cann, một phụ nữ khác mắc chứng rối loạn tương tự, đã bị vỡ xương chậu khi sinh đứa con đầu lòng nhưng không hề cảm nhận được điều gì trong nhiều tuần, cho đến khi phần xương hông khiến cô gần như không thể bước đi.
Người mắc chứng rối loạn này thường có tuổi thọ ngắn và chết trong thời thơ ấu. Trong số các em bé bị chứng CIPA, 50% không sống qua 3 tuổi. Quấn trong tấm khăn của những bậc cha mẹ có ý tốt, những đứa trẻ này không hề khóc khi nhiệt độ bên trong quá nóng. Những người sống sót thường xuyên cắn đầu lưỡi hoặc gây ra tổn thương nghiêm trọng cho giác mạc từ việc dụi mắt. Người lớn bị chứng rối loạn này thường gây ra các vết sẹo trên người và gãy xương nhiều lần. Mỗi ngày họ phải kiểm tra cơ thể của mình để xem liệu có vết thương nào không. Nhìn thấy các vết thâm tím, vết cắt hoặc bỏng là cách duy nhất để họ biết chuyện gì đã xảy ra. Viêm ruột thừa và các bệnh ác tính khác là mối quan tâm đặc biệt – người bị CIPA thường không nhận ra bất kỳ triệu chứng gì cho đến khi đã quá muộn.
Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta, tại một thời điểm nào đó, từng ước mình giống như Ashlyn?
Thật dễ dàng nhìn thấy lợi ích của chứng này. Không còn những cơn đau dai dẳng. Không còn sợ hãi mỗi khi bước vào phòng nha sỹ. Một cuộc sống miễn nhiễm với mọi sự khó chịu dù là nhỏ nhất từ bệnh tật và chấn thương. Không bao giờ đau đầu hoặc phải chịu đựng chứng đau lưng dưới.
Về phạm trù chăm sóc sức khoẻ và suy giảm năng suất lao động, những cơn đau đã làm nước Mỹ hao tổn từ 560 đến 635 tỷ đô/năm. 15% người Mỹ phải đối mặt với cơn đau mãn tính hàng ngày, và nhiều người trong số họ sẽ không ngần ngại hoán đổi vị trí với Ashlyn.
Một trong những nhân vật phản diện trong cuốn tiểu thuyết bán chạy The Girl Who Played with Fire bị mắc chứng CIPA, và khiếm khuyết ấy được ví von như một loại siêu năng lực. Với kỹ năng của một võ sỹ quyền Anh chuyên nghiệp và không biết đau là gì, anh ta dường như bất khả chiến bại, và đồng thời cũng là một kẻ thù đáng sợ.
Điều này gợi lên những câu hỏi lớn hơn: Khi nào thì điểm yếu của chúng ta sẽ thật sự trở thành điểm mạnh? Liệu có tốt hơn khi là một kẻ xuất chúng vừa có cả khuyết tật lẫn siêu năng lực? Hay cuộc đời chúng ta sẽ tốt hơn nếu là người bình thường? Chúng ta thường được khuyên hãy thận trọng, nhưng liệu cứ làm theo những điều “‘đúng đắn” và không mạo hiểm ở những cực điểm có là con đường dẫn đến thành công – hay chỉ là cách để mắc kẹt với sự tầm thường?
Để giải quyết câu đố này, trước hết hãy nhìn vào những người luôn tuân theo các quy tắc và làm đúng mọi thứ. Hãy xét các thủ khoa ở trường trung học. Đó là điều tất cả các bậc cha mẹ đều mong ước con mình đạt được. Các bà mẹ thuờng bảo rằng cứ học hành chăm chỉ là con sẽ thành công trong cuộc sống. Và mẹ thì thường nói đúng.
Nhưng không phải lúc nào cũng vậy.
Karen Arnold tại Đại học Boston đã theo dõi 81 học sinh tốt nghiệp thủ khoa và á khoa ở các trường trung học để xem nhóm dẫn đầu về thành tích học tập này sau đó ra sao. 95% số học sinh đó về sau tiếp tục học tập và tốt nghiệp đại học, điểm trung bình 3,6 (với 4 là số điểm tối đa) – đến năm 1994, 60% đã có bằng sau đại học. Thành công ở trung học dự báo thành công ở đại học là chuyện không phải bàn. Gần 90% hiện đang làm nghề có chuyên môn, với 40% làm các công việc bậc cao nhất. Họ rất đáng tin cậy, ổn định, dễ thích nghi, và đa số đều có cuộc sống tốt đẹp.
Nhưng có bao nhiêu người trong số những học sinh số 1 tại trường trung học thay đổi thế giới này, điều hành thế giới này, hay để lại dấu ấn gì đó đặc biệt trên khắp địa cầu? Câu trả lời gần như quá rõ ràng: 0.
Khi bàn về con đường thành công của những đối tượng đang quan sát Karen Arnold nói: “Mặc dù hầu hết đều là những người thành công trong sự nghiệp, phần lớn các cựu thủ khoa của trường trung học đều không góp mặt ở các vị trí đầu bảng xếp hạng trên các đấu trường dành cho người trưởng thành.” Trong một buổi phỏng vấn khác, Arnold nói: “Các thủ khoa thường không phải là người có tầm nhìn xa trông rộng trong tương lai […] họ thường sắp xếp mọi thứ một cách hệ thống thay vì đổi mới.”
Hay do 81 học sinh này chưa đủ trình để vào nhóm cao nhất? Không. Nghiên cứu cho thấy thứ giúp học sinh gây ấn tượng trong lớp cũng chính là thứ làm giảm khả năng bứt phá để chiến thắng bên ngoài học đường.
Vậy tại sao những thủ khoa ở các trường trung học rất hiếm khi chạm đến vị trí số một trong cuộc sống? Có 2 lý do. Đầu tiên, trường học luôn thưởng cho những học sinh biết nghe lời và làm theo những gì được bảo. Điểm số ở trường chỉ tương quan lỏng lẻo với chỉ số thông minh (các bài kiểm tra đã chuẩn hóa đo lường chỉ số IQ hiệu quả hơn). Tuy nhiên, điểm số lại là một chỉ báo tuyệt vời về sự tự giác, sự tận tâm, và khả năng tuân thủ quy tắc.1
1 [ND] “Điểm số có mối tương quan lỏng lẻo” (correlate loosely) có nghĩa là vẫn có tương quan, nhưng so với các yếu tố kia thì mối tương quan này không mạnh bằng. Hơn nữa, tương quan giữa điểm số và trí thông minh cũng thay đổi khi đưa vào các biến điều tiết (moderator) như môn học hay cấp lớp, khiến nó đánh giá trí thông minh không chính xác như các bài kiểm tra chuẩn hóa. Câu này không có nghĩa là điểm số không liên quan gì đến sự thông minh.
Trong một cuộc phỏng vấn, Arnold cho biết: “Về cơ bản, chúng ta đang khen thưởng cho sự tuân thủ và sẵn sàng đồng hành cùng hệ thống. Nhiều thủ khoa cũng thừa nhận rằng họ không phải là người thông minh nhất lớp, chỉ là người làm việc chăm chỉ nhất. Số khác cho rằng vấn đề nằm ở chỗ họ cố gắng đáp ứng đòi hỏi của giáo viên hơn là thực sự tìm hiểu kiến thức. Hầu hết các đối tượng trong nghiên cứu này được phân loại vào nhóm “sự nghiệp gia” (careerist): Họ xem công việc của mình là đạt điểm số tốt chứ không phải là học hỏi.
Lý do thứ hai là trường lớp thường tập trung khen thưởng các “tổng quát gỉa” (generalist) – những người đa lĩnh vực. Có quá ít sự ghi nhận về đam mê hay biệt tài của học sinh. Ngoài đời thực, chuyện lại hoàn toàn trái ngược Đề cập đến những thủ khoa, Arnold nói, “Họ hiểu biết sâu rộng và cực kỳ thành công, cả trên phương diện cá nhân lẫn sự nghiệp, nhưng họ không bao giờ cống hiến cho một lĩnh vực nhất định nào, và không dốc hết đam mê vào đó. Và đó thường không phải công thức cho sự đột phá.
Nếu bạn. muốn học tốt ở trường và đồng thời cũng mê toán, bạn cần phải dừng việc cố đạt luôn điểm A trong môn Lịch sử. Cách tiếp cận “đa khoa” này sẽ không giúp tạo dựng chuyên môn. Nhưng rốt cuộc tất cả chúng ta sẽ đều tham gia một ngành nghề nào đó, nơi mà một kỹ năng nhất định được đề cao, trong khi những kỹ năng khác lại chẳng hề quan trọng.
Trớ trêu thay, Arnold cũng nhận ra những sinh viên thông minh yêu thích học tập lại gặp khó khăn ở trung học. Họ muốn tập trung vào đam mê của mình, thích đạt được sự thành thạo, và cảm thấy cách vận hành ở trường thật ngột ngạt. Trong khi đó, các thủ khoa lại rất thực dụng. Họ tuân theo các quy tắc và đề cao điểm A hơn là những kỹ năng và sự thấu hiểu sâu sắc.
Trường học có những quy tắc rõ ràng. Cuộc đời thường lại không. Khi không có một con đường rõ ràng nào để đi theo, những người có thành tích học tập cao gục ngã.
Nghiên cứu của Shawn Achor tại Harvard cho thấy điểm số đại học của một người cũng không dự đoán được cuộc đời sau này tốt gì hơn cách tiên đoán bằng đổ xí ngầu. Một cuộc nghiên cứu hơn 700 triệu phú Mỹ cũng cho thấy mức điểm trung bình của họ chỉ ở mức 2,9.
Tuân theo quy tắc không tạo ra thành công; nó chỉ loại bỏ những cực điểm – cả cực tốt lẫn cực xấu. Tuy điều này trông cũng tốt vì loại bỏ được rủi ro tiêu cực, nó cũng đồng thời loại bỏ luôn cả những thành tựu long trời lở đất. Giống như thể đặt một bộ điều tiết vào động cơ ngăn cho xe của bạn không vượt quá tốc độ 55; bạn sẽ ít có khả năng đụng chết người nhưng cũng sẽ không lập được kỷ lục nào về tốc độ.
Vậy, nếu những người chơi theo luật không kết thúc ở vị trí dẫn đầu, thì ai sẽ về nhất?