Flow (Dòng Chảy) - Mihaly Csikszentmihalyi - Chương 1
DẪN NHẬP
Cách đây khoảng 2300 năm, triết gia Aristotle đã kết luận, hơn mọi thứ khác trên đời, hạnh phúc chính là điều mà tất cả mọi người đều tìm kiếm. Trong khi hạnh phúc được mưu cầu do lợi ích của chính nó, thì mọi mục tiêu khác – sức khỏe, sắc đẹp, tiền bạc, hay quyền lực – đều chỉ có giá trị bởi vì chúng ta kỳ vọng rằng việc có được chúng sẽ khiến chúng ta hạnh phúc. Nhiều thay đổi đã diễn ra từ thời đại của Aristotle. Hiểu biết của chúng ta về thế giới, về các vì sao và các nguyên tử, đã mở rộng phạm vi niềm tin của chúng ta. Các vị thần được người Hy Lạp xưng tụng sẽ như những đứa trẻ bất lực nếu đem so sánh với nhân loại ngày nay, với những sức mạnh họ sở hữu. Ấy vậy mà, vấn đề tối quan trọng này – mưu cầu hạnh phúc – lại có rất ít sự thay đổi trong hàng thế kỷ qua. Chúng ta chẳng hiểu biết gì nhiều hơn về hạnh phúc so với những gì Aristotle đã biết và khi nói về việc học cách đạt được trạng thái tốt đẹp đó, người ta có thể chỉ ra rõ rằng chúng ta đã chẳng đạt được chút tiến bộ nào.
Bất chấp thực tế là ngày nay chúng ta khỏe mạnh và sống thọ hơn, bất chấp cả thực tế là những người ít giàu có nhất trong chúng ta cũng được bao bọc trong những tiện nghi vật chất xa xỉ mà ở một vài thập kỷ trước thậm chí chẳng thể mơ tới (cả cung điện của vua Louis XIV của nước Pháp chỉ có một vài cái nhà tắm, những chiếc ghế ngồi được coi là hàng hiếm ngay cả trong những ngôi nhà giàu có nhất thời Trung cổ và không một vị hoàng đế La Mã nào có thể bật tivi để giải trí khi ông ta buồn chán) và bất chấp tất cả những kiến thức khoa học kỳ diệu mà chúng ta có thể tập hợp để sử dụng theo ý muốn, thì mọi người vẫn thường xuyên cảm thấy cuộc đời họ đã bị lãng phí và thay vì cảm thấy ngập tràn hạnh phúc, thì những năm tháng cuộc đời họ lại trôi qua trong sự lo lắng và chán chường.
Phải chăng vì định mệnh của nhân loại là phải luôn cảm thấy không toại nguyện, mỗi con người phải luôn thèm muốn nhiều hơn những gì họ có thể có được? Hay phải chăng nỗi phiền muộn lan tỏa thường xuất hiện ngay cả trong những khoảnh khắc quý giá nhất trong đời chúng ta là kết quả của việc tìm kiếm hạnh phúc sai chỗ? Ý định của quyển sách này, là dùng một số công cụ của tâm lý học hiện đại, để khám phá câu hỏi rất cổ xưa này: Khi nào thì mọi người cảm thấy hạnh phúc nhất? Nếu chúng ta có thể bắt đầu tìm thấy đáp án cho câu hỏi ấy, có lẽ chúng ta rốt cuộc cũng có thể thu xếp một cuộc sống mà hạnh phúc đóng vai trò chủ đạo trong đó.
Hai mươi lăm năm trước khi bắt đầu viết những dòng chữ này, tôi đã thực hiện một cuộc khám phá mà đã lấy đi tất cả thời gian rỗi của mình. Gọi nó là một “cuộc khám phá” có thể gây hiểu nhầm, bởi người ta vốn đã nhận thức được những câu trả lời ấy từ thuở bình minh của nhân loại. Tuy vậy, dùng từ đó là thích đáng, vì dù bản thân những phát hiện của tôi đã được biết đến ít nhiều, song nó vẫn chưa được mô tả hay giải thích trên phương diện lý thuyết bởi nhánh học thuật liên quan, trong trường hợp này là tâm lý học. Vì vậy, tôi đã dành một phần tư thế kỷ để nghiên cứu hiện tượng khó nắm bắt này.
Điều tôi “khám phá” ra được là hạnh phúc không phải là một cái gì đó đơn giản xảy ra. Nó không phải là kết quả của vận may hay sự ngẫu nhiên. Nó không phải thứ mà tiền bạc có thể mua hay quyền lực có thể chi phối được. Nó không phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh, mà chính xác hơn, nó phụ thuộc vào cách chúng ta diễn giải về những điều kiện ngoại cảnh đó. Hạnh phúc, trên thực tế, là một trạng thái cần phải được chuẩn bị, được vun bồi và được bảo vệ một cách riêng tư, bởi mỗi cá nhân. Những người học được cách kiểm soát trải nghiệm nội tại của mình, sẽ có khả năng quyết định được chất lượng cuộc sống của họ và điều này khiến gần như tất cả chúng ta đều có cơ hội trở nên hạnh phúc.
Tuy nhiên, chúng ta không thể đạt được hạnh phúc bằng cách truy tầm nó một cách có chủ đích. “Tự hỏi chính mình có cảm thấy hạnh phúc không ”, John Stuart Mill nói, “và bạn sẽ không còn hạnh phúc nữa”. Đó là bởi chúng ta cảm thấy hạnh phúc bằng cách hòa mình trọn vẹn, hết mình vào mọi khoảnh khắc của đời sống hằng ngày, dẫu chúng tuyệt vời hay tồi tệ, chứ không phải bằng cách cố gắng trực tiếp truy lùng hạnh phúc. Viktor Frankl, nhà tâm lý học người Áo, đã tóm tắt điều đó rất hay trong phần mở đầu của quyển sách Man’s Search for Meaning của ông, “Đừng nhắm đến thành công – bạn càng nhắm đến nó và biến nó thành một mục tiêu, bạn càng bỏ lỡ nó. Bởi vì thành công, cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm mà có, nó phải được sản sinh ra như một tác dụng phụ không được dự tính trước từ sự phụng hiến cá nhân của một người cho một hành trình cao cả hơn chính bản thân người đó”.
Vậy làm thế nào chúng ta có thể đạt đến mục tiêu khó nắm bắt này trong khi chẳng thể đi đến nó bằng một lộ trình trực tiếp nào? Các nghiên cứu của tôi trong một phần tư thế kỷ qua, đã thuyết phục tôi rằng có tồn tại một con đường khác. Đó là một đường vòng, quanh co, bắt đầu từ việc kiểm soát được các chất liệu chứa đựng bên trong ý thức của chúng ta.
Nhận thức của chúng ta về cuộc sống của mình là kết quả của nhiều lực tác động vốn định hình nên các trải nghiệm, mỗi lực tác động đều ảnh hưởng đến việc chúng ta cảm thấy tốt lành hay tồi tệ về cuộc sống. Hầu hết các lực tác động này nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Không có nhiều điều ta có thể làm để tác động lên ngoại hình, tính khí, hay thể chất của mình. Chúng ta không thể quyết định được – ít nhất cho tới hiện nay – rằng mình sẽ cao đến mức nào hay thông minh ra sao. Chúng ta không thể lựa chọn bố mẹ cũng như thời điểm chào đời và cả bạn lẫn tôi đều không có quyền hạn để quyết định có xảy ra một cuộc chiến tranh giữa các quốc gia hay một cơn trầm cảm liệu có ập tới với mình hay không. Các thông tin được chứa trong gen di truyền của chúng ta, lực hút của trọng lực, lượng phấn hoa bay trong không khí, giai đoạn lịch sử mà ta được sinh ra – những điều đó và vô số những điều kiện khác – quyết định điều chúng ta nhìn nhận, cách ta cảm nhận và hành động ta làm. Chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng ta thường được khuyên là nên tin rằng số phận của ta chủ yếu được định đoạt bởi các yếu tố bên ngoài.
Tuy vậy, chúng ta đều từng trải qua những thời khắc mà thay vì bị vùi dập tơi tả bởi những lực tác động ẩn danh, chúng ta lại cảm thấy tự kiểm soát được các hành động của mình, làm chủ được số phận của chính mình. Trong những lần hiếm hoi mà chuyện đó diễn ra, chúng ta cảm nhận một trạng thái hưng phấn, một cảm giác sâu sắc của sự thích thú được ấp ủ từ lâu và trải nghiệm đó trở thành một bước ngoặt trong ký ức, thay đổi nhận thức của chúng ta về việc cuộc sống nên như thế nào.
Đó chính là những gì mà chúng tôi muốn nói khi nói về khái niệm: Trải nghiệm tối ưu. Đó chính là điều mà người thủy thủ đang bám sát hải trình của mình cảm nhận được khi gió quật mạnh từng cơn qua mái tóc, khi chiếc thuyền anh đang điều khiển lướt trên những con sóng như một cánh chim – cánh buồm, thân tàu, gió và thanh âm của biển ngân lên một nhịp điệu hài hòa rung động trong từng thớ thịt, mạch máu của anh. Đó chính là điều mà một họa sĩ cảm nhận được khi màu vẽ trên tấm vải bố bắt đầu tạo nên hiệu ứng cuốn hút mạnh mẽ lẫn nhau và một thứ mới mẻ, một dạng thức sống động bắt đầu hình thành trước sự ngạc nhiên ngây ngất của người tạo ra nó. Hoặc đó chính là cảm nhận mà một người cha có được khi đứa con lần đầu tiên đáp lại nụ cười của mình. Tuy nhiên, những sự kiện như thế không chỉ xảy ra khi các điều kiện ngoại cảnh thuận lợi; những người sống sót trong các trại tập trung của phát–xít Đức, hay những người sinh tồn qua những nguy hiểm cận kề cái chết thường nhớ lại rằng, giữa lòng thử thách của mình, họ đã trải nghiệm những khoảnh khắc khai ngộ phi thường phong phú trong sự hồi đáp với những sự kiện giản dị như nghe tiếng hót của một con chim trong rừng, hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn, hay chia sẻ một lát bánh mì với người bạn.
Trái với những gì chúng ta thường tin tưởng, những khoảnh khắc như thế, những khoảnh khắc đẹp đẽ diệu kỳ nhất trong cuộc sống, không phải là những khoảng thời gian thụ động, dễ cảm nhận, hay thư giãn – dù vậy, những trải nghiệm ấy có thể rất thú vị, nếu chúng ta nỗ lực một cách chăm chỉ để đạt được chúng. Những khoảnh khắc tốt đẹp nhất thường xảy đến khi cơ thể hay tâm trí của một người được kéo căng đến giới hạn của nó, trong một nỗ lực tự nguyện, nhằm hoàn thành một nhiệm vụ khó khăn và đáng giá. Do vậy, trải nghiệm tối ưu là thứ gì đó chúng ta chủ động làm cho nó xảy ra. Đối với một đứa trẻ, đó có thể là việc đặt khối gỗ cuối cùng bằng những ngón tay run rẩy lên một tòa tháp mà nó đã xây cao hơn bất kỳ tòa tháp gỗ nào nó từng xây được trước đây; đối với một vận động viên bơi lội, đó có thể là việc cố gắng phá vỡ kỷ lục của chính mình; đối với một nghệ sĩ vĩ cầm, đó có thể là làm chủ một đoạn nhạc phức tạp. Đối với mỗi người, có hàng ngàn cơ hội và thử thách có thể giúp mở rộng bản thân.
Những trải nghiệm như vậy không nhất thiết luôn dễ chịu tại thời điểm chúng diễn ra. Các cơ bắp của vận động viên bơi có thể bị căng cứng, đau đớn cực kỳ trong cuộc đua đáng nhớ nhất của anh; phổi của anh có thể như sắp nổ tung và anh có thể cảm thấy choáng váng trong sự mệt mỏi rã rời – tuy nhiên, đó vẫn là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cuộc đời anh. Kiểm soát được cuộc sống chưa bao giờ là điều dễ dàng và đôi khi nó có thể đồng nghĩa với sự đau đớn không tránh khỏi. Nhưng xét về lâu dài, thì trải nghiệm tối ưu mang đến một cảm giác tự chủ – hoặc có thể tốt hơn, là một cảm giác tham gia vào việc quyết định nội hàm của cuộc sống – điều gần với những gì được cho là hạnh phúc hơn bất kỳ điều gì khác chúng ta có thể hình dung ra.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã cố hiểu chính xác nhất có thể mọi người cảm nhận thế nào vào những lúc họ vui sướng mãn nguyện nhất và tại sao họ cảm nhận như vậy. Những nghiên cứu đầu tiên của tôi bao hàm hàng trăm “chuyên gia” – các nghệ sĩ, các vận động viên, các nhạc sĩ, các bậc thầy cờ vua và các bác sĩ giải phẫu – nói cách khác, là những người dành trọn thời gian của họ vào những hoạt động họ ưa thích. Từ những tường thuật của họ về cảm giác khi làm những điều họ đã và đang làm, tôi đã phát triển một lý thuyết về trải nghiệm tối ưu, dựa trên trạng thái dòng chảy – trạng thái mà trong đó con người tham gia vào một hoạt động sâu sắc đến mức dường như chẳng còn điều gì khác là quan trọng nữa; bản thân trải nghiệm ấy thú vị đến nỗi, người ta sẽ quyết tâm làm nó dù phải trả một cái giá rất đắt, chỉ bởi lợi ích tự thân khi làm việc đó.
Với sự trợ giúp của mô hình lý thuyết này, nhóm nghiên cứu của tôi ở Đại học Chicago và sau này là các đồng nghiệp trên khắp thế giới, đã phỏng vấn hàng ngàn cá nhân đến từ nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Các nghiên cứu này đã gợi ý rằng những trải nghiệm tối ưu đều được mô tả theo cùng một cách bởi cả nam giới và nữ giới, bởi cả người trẻ lẫn người già, bất kể sự khác biệt về văn hóa. Trạng thái dòng chảy không phải là đặc thù của sự giàu có hay những tiện nghi công nghiệp. Nó đã được thuật lại, bằng những lời lẽ mà về cơ bản là tương tự, bởi những phụ nữ lớn tuổi tại Hàn Quốc, bởi những người trưởng thành ở Thái Lan và Ấn Độ, bởi thanh thiếu niên ở Tokyo, bởi những người chăn cừu Navajo, bởi các nông dân ở dãy núi An-pơ của Ý và bởi các công nhân làm việc trên các dây chuyền sản xuất ở Chicago.
Ban đầu, dữ liệu của chúng tôi bao gồm các cuộc phỏng vấn và các bảng câu hỏi. Để đạt được độ chính xác cao hơn, theo thời gian, chúng tôi đã phát triển một phương pháp mới để đo lường chất lượng của một trải nghiệm chủ quan. Kỹ thuật này được gọi là Phương pháp Lấy mẫu Kinh nghiệm (ESM), trong đó yêu cầu mọi người đeo một thiết bị nhắn tin điện tử trong một tuần và viết ra họ đang cảm thấy thế nào và đang nghĩ gì bất cứ khi nào máy nhắn tin báo hiệu. Máy nhắn tin được kích hoạt bởi một máy phát vô tuyến khoảng tám lần một ngày, với khoảng cách thời gian ngẫu nhiên. Vào cuối tuần, mỗi người tham gia sẽ tổng kết lại bằng một máy ghi, ghi lại một đoạn phim về cuộc sống họ, được chọn từ những khoảnh khắc đại diện. Đến nay hơn một trăm ngàn những kinh nghiệm được lựa chọn cắt ngang như thế đã được thu thập từ nhiều nơi trên thế giới. Những kết luận của quyển sách này được dựa trên những dữ liệu ấy.
Nghiên cứu về dòng chảy mà tôi đã khởi xướng ở Đại học Chicago ngày nay đã lan rộng khắp thế giới. Các nhà nghiên cứu ở Canada, Đức, Ý, Nhật và Úc đã tiếp tục các nghiên cứu về nó. Hiện tại, ngoài Đại học Chicago thì tập hợp các dữ liệu phong phú nhất nằm ở Viện Tâm lý học của trường Y khoa thuộc Đại học Milan, nước Ý. Khái niệm dòng chảy được nhận xét là hữu ích bởi các nhà tâm lý học chuyên nghiên cứu về hạnh phúc, sự hài lòng về cuộc sống và các động lực nội tại; bởi cả những nhà xã hội học đã tìm thấy trong nó sự đối lập của việc thiếu chuẩn mực đạo đức và sự bất hòa; bởi các nhà nhân chủng học có hứng thú với hiện tượng nhiệt huyết tập thể và các nghi thức chung. Một số người đã mở rộng các ý nghĩa của dòng chảy để nỗ lực tìm hiểu sự tiến hóa của nhân loại và một số người khác thì sử dụng nó để soi sáng kinh nghiệm tôn giáo của mình.
Nhưng dòng chảy không chỉ là một chủ đề mang tính học thuật. Chỉ một vài năm sau khi được xuất bản lần đầu tiên, lý thuyết này đã bắt đầu được ứng dụng cho một loạt các vấn đề thực tiễn. Bất cứ khi nào mục tiêu là cải thiện chất lượng đời sống, thì lý thuyết dòng chảy có thể vạch ra con đường đạt được mục tiêu ấy. Nó đã truyền cảm hứng cho việc tạo ra chương trình giảng dạy mang tính thực nghiệm, cho chương trình đào tạo các giám đốc điều hành kinh doanh, cho việc thiết kế các sản phẩm và dịch vụ giải trí. Dòng chảy đang được dùng để tạo ra ý tưởng và phương thức thực hành trong lĩnh vực tâm lý trị liệu lâm sàng, phục hồi cho các tội phạm vị thành niên, tổ chức các hoạt động trong nhà dưỡng lão, thiết kế các buổi triển lãm bảo tàng và trị liệu cơ năng dành cho người tàn tật. Tất cả những điều này đã xảy ra trong vòng một chục năm sau khi các bài viết đầu tiên về khái niệm dòng chảy xuất hiện trên các tạp chí học thuật và có những dấu hiệu cho thấy rằng tác động của lý thuyết này sẽ còn mạnh mẽ hơn trong những năm sắp tới.
TỔNG QUAN
Đã có nhiều bài báo và sách về lý thuyết dòng chảy được viết dành cho dân chuyên ngành, nhưng đây là lần đầu tiên mà nghiên cứu về trải nghiệm tối ưu được trình bày cho độc giả phổ thông và những ý nghĩa của nó đối với đời sống con người được mang ra thảo luận. Tuy vậy, những gì được viết tiếp sau đây sẽ không phải là một quyển cẩm nang hướng dẫn theo kiểu “làm thế nào để…”. Thật vậy, có hàng ngàn quyển sách kiểu đó đang được in hoặc tồn đọng trên kệ các hiệu sách, giảng giải làm thế nào để trở nên giàu có, nhiều quyền lực, được yêu, hay có vóc dáng mảnh mai. Giống như những quyển sách dạy nấu ăn, họ nói cho bạn biết làm thế nào để đạt được một mục tiêu cụ thể, có giới hạn nhất định, mà ít người thực sự theo đuổi đến cùng. Tuy nhiên, ngay cả khi lời khuyên của họ từng có hiệu quả, rồi thì kết quả sẽ ra sao trong tình huống không chắc xảy ra đó, khi một người trở nên mảnh mai, được yêu thương, hay trở thành một triệu phú đầy quyền lực? Thông thường, điều xảy ra là: người ta sẽ thấy mình trở lại vạch xuất phát, với một danh sách mong muốn mới và vẫn không thỏa mãn với cuộc sống như trước. Điều sẽ làm người ta hài lòng thỏa mãn không phải là có vóc dáng thanh mảnh hay trở nên giàu có, mà là họ cảm thấy tốt đẹp về cuộc sống của mình. Trong cuộc truy tầm hạnh phúc, những giải pháp cục bộ không có hiệu quả.
Dù với ý định tốt đến đâu, thì những cuốn sách sẽ không thể đưa ra công thức làm thế nào để cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì trải nghiệm tối ưu phụ thuộc vào khả năng kiểm soát những gì đang xảy ra, trong sự tỉnh thức, qua từng khoảnh khắc; mỗi người phải đạt được nó trên cơ sở của những nỗ lực và sự sáng tạo của riêng mình. Tuy vậy, điều mà một quyển sách có thể làm và đó là điều mà quyển sách này sẽ nỗ lực thực hiện, là trình bày các ví dụ minh họa về việc cuộc sống có thể trở nên thú vị, hứng khởi và trật tự hơn ra sao trong khuôn khổ của lý thuyết, để độc giả có thể đối chiếu dựa trên đó và từ đó họ có thể tự rút ra những kết luận của riêng mình.
Thay vì trình bày một danh sách những thứ nên và không nên làm, quyển sách này có ý định trở thành một chuyến du hành qua các lãnh địa của tâm trí, với tấm bản đồ được vẽ bởi các công cụ khoa học. Giống như mọi cuộc phiêu lưu đáng giá, chuyến du hành này sẽ không hề dễ dàng. Nếu không có một số nỗ lực tinh thần, một sự cam kết đối chiếu và chiêm nghiệm cặn kẽ về trải nghiệm của riêng bạn, thì bạn sẽ không gặt hái được gì nhiều từ những nội dung sau đây.
Cuốn sách này sẽ khảo sát quá trình đạt được hạnh phúc thông qua sự kiểm soát đời sống nội tại của một người. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét cách thức hoạt động của ý thức và cách thức nó được kiểm soát (Chương hai), bởi vì chỉ khi chúng ta hiểu được các trạng thái mang tính chủ quan được định hình như thế nào thì chúng ta mới có thể làm chủ được chúng. Tất cả những gì chúng ta trải nghiệm – niềm vui hay sự đau đớn, sự hứng thú hay nhàm chán – đều được thể hiện trong tâm trí dưới dạng thông tin. Nếu chúng ta có thể kiểm soát thông tin này, chúng ta có thể quyết định cuộc sống của mình sẽ ra sao.
Trạng thái tối ưu của trải nghiệm nội tại là một trạng thái trong đó tồn tại trật tự trong ý thức. Điều này xảy ra khi năng lượng tinh thần – hay sự chú ý – được đầu tư vào các mục tiêu thực tế và khi các kỹ năng tương thích với những cơ hội hành động. Việc theo đuổi một mục tiêu giúp mang lại trật tự trong nhận thức bởi vì ta phải tập trung sự chú ý vào nhiệm vụ trước mắt và trong giây lát quên đi những thứ khác. Những giai đoạn chiến đấu để vượt qua những thử thách được mọi người nhận thấy là khoảng thời gian thú vị nhất trong cuộc sống của họ (Chương ba). Một người đã đạt được khả năng kiểm soát năng lượng tinh thần và đã đầu tư nó vào các mục tiêu được chọn lọc có ý thức thì không thể không phát triển thành một thực thể phức tạp hơn. Bằng cách nới rộng các kỹ năng, bằng cách vươn tới những thử thách cao hơn, người như vậy sẽ trở thành một cá nhân ngày càng phi thường.
Để hiểu tại sao một số thứ chúng ta làm lại thú vị hơn những thứ khác, chúng ta sẽ xem xét các điều kiện tạo nên trải nghiệm dòng chảy (Chương bốn). “Dòng chảy” là cách mọi người mô tả trạng thái tâm trí của họ, khi ý thức đạt trật tự hài hòa và họ muốn theo đuổi bất kỳ điều gì họ đang làm vì lợi ích tự thân của việc làm điều đó. Trong sự xem xét một số hoạt động liên tục tạo ra trạng thái dòng chảy – chẳng hạn như thể thao, trò chơi, nghệ thuật và sở thích – thì việc hiểu điều gì khiến mọi người hạnh phúc trở nên dễ dàng hơn.
Nhưng người ta không thể chỉ dựa vào các trò chơi và nghệ thuật để cải thiện chất lượng cuộc sống. Để đạt được sự kiểm soát những gì xảy ra trong tâm trí, người ta có thể vạch ra một phạm vi gồm vô số những cơ hội để tận hưởng niềm vui – ví dụ như, thông qua việc sử dụng các kỹ năng mang tính thể lý và cảm giác (physical and sensory skills) từ thể thao tới âm nhạc, cho tới bộ môn Yoga (Chương năm), hoặc thông qua sự phát triển các kỹ năng mang tính biểu tượng (symbolic skills) như thơ ca, triết học, hay toán học (Chương sáu).
Hầu hết mọi người dành phần lớn cuộc đời mình để làm việc và tương tác với người khác, đặc biệt là các thành viên trong gia đình. Do đó, điều quan trọng là chúng ta cần học cách chuyển đổi công việc thành các hoạt động tạo ra dòng chảy (Chương bảy) và nghĩ ra cách tạo dựng những mối quan hệ thú vị hơn, chất lượng hơn với cha mẹ, vợ chồng, con cái và bạn bè (Chương tám).
Nhiều cuộc đời bị gián đoạn bởi những tai nạn bi thảm và ngay cả những người may mắn nhất cũng phải chịu nhiều căng thẳng dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, những sóng gió như thế không nhất thiết làm mất đi cảm giác hạnh phúc. Chính cách mọi người phản ứng với sự căng thẳng sẽ quyết định liệu họ có thu được ích lợi gì từ sự kém may mắn hay khốn khổ đó hay không. Chương chín mô tả những cách thức mà người ta xoay xở để thưởng thức cuộc sống bất chấp nghịch cảnh.
Và, sau rốt, bước cuối cùng sẽ mô tả cách mọi người xử lý để mang tất cả những trải nghiệm vào một mô thức có ý nghĩa (Chương mười). Khi điều đó được thực hiện và người ta cảm thấy kiểm soát được cuộc sống cũng như cảm thấy điều đó có ý nghĩa, sẽ không còn gì để ham muốn hơn nữa. Thực tế, việc người ta không có vóc dáng mảnh mai, không giàu có hay quyền lực sẽ không còn là vấn đề quan trọng nữa. Cơn thủy triều của những kỳ vọng đang xuất hiện vẫn ở đó; nhưng những nhu cầu chưa được đáp ứng không còn làm phiền tâm trí nữa. Ngay cả những trải nghiệm buồn chán nhất cũng trở nên thú vị.
Do đó, cuốn sách này sẽ khám phá những gì liên quan đến việc đạt được các mục tiêu kể trên. Ý thức được kiểm soát như thế nào? Nó được sắp xếp như thế nào để tạo ra trải nghiệm thú vị? Làm sao để đạt được tính phức tạp? Và cuối cùng, làm thế nào để tạo ra điều có ý nghĩa? Cách để đạt được những mục tiêu này là tương đối dễ dàng về lý thuyết nhưng khá khó khăn trong thực tế. Bản thân các quy tắc đã đủ rõ ràng và nằm trong tầm với của mọi người. Nhưng nhiều lực tác động, cả bên trong chúng ta lẫn bên ngoài môi trường, sẽ cản đường. Nó khá giống với việc cố gắng giảm cân: mọi người đều biết những gì cần làm, mọi người đều muốn giảm cân, nhưng nó vẫn là bất khả thi với nhiều người. Tuy nhiên, câu chuyện ở đây ở một tầm cao hơn nhiều. Nó không chỉ là vấn đề giảm đi một vài cân nặng. Nó là vấn đề đánh mất cơ hội để có một cuộc đời đáng sống.
Trước khi mô tả làm thế nào để đạt được trải nghiệm dòng chảy tối ưu, chúng ta cần xem xét nhanh một số rào cản ngăn trở tiềm năng thỏa mãn, toại nguyện, trong những điều kiện của con người. Trong những câu chuyện cổ, trước khi có thể sống hạnh phúc mãi mãi, người anh hùng phải đối đầu với những con rồng lửa và những phù thủy độc ác trên hành trình của mình. Ẩn dụ này cũng áp dụng cho sự khám phá về mặt tinh thần. Tôi cho rằng lý do chính khiến chúng ta rất khó đạt được các tâm điểm hạnh phúc nằm ở thực tế là, trái với các huyền thoại mà nhân loại đã xây dựng để tự trấn an họ, vũ trụ không được tạo ra để đáp ứng các nhu cầu của chúng ta. Sự vỡ mộng được dệt sâu vào tấm vải cuộc sống. Và bất cứ khi nào một vài nhu cầu của chúng ta được đáp ứng nhất thời, chúng ta lập tức bắt đầu thèm muốn nhiều hơn. Sự bất mãn mạn tính này là trở ngại thứ nhì ngăn chặn cảm giác thỏa mãn, toại nguyện.
Để đối phó với những rào cản này, theo thời gian, mọi nền văn hóa đều phát triển các công cụ tự vệ – tôn giáo, triết học, nghệ thuật và các tiện nghi – giúp che chắn cho chúng ta khỏi sự hỗn loạn. Chúng giúp chúng ta tin rằng mình đang kiểm soát những gì đang xảy ra và cho chúng ta những lý do để hài lòng với số phận của mình. Nhưng những chiếc khiên chắn này chỉ có hiệu quả nhất thời; sau một vài thế kỷ, đôi khi chỉ sau một vài thập kỷ, một tôn giáo hay một tín ngưỡng trở nên kiệt sức và không còn cung cấp được sự nuôi dưỡng tinh thần mà nó từng làm nữa.
Khi mọi người cố gắng tự mình đạt được hạnh phúc mà không có sự hỗ trợ của đức tin, họ thường tìm cách tối đa hóa những thú vui được lập trình về mặt sinh học trong gen của họ hoặc bị lôi kéo bởi xã hội mà họ đang sống. Sự giàu có, quyền lực và tình dục trở thành những mục tiêu chủ chốt định hướng cho mọi nỗ lực của họ. Nhưng chất lượng cuộc sống không thể được cải thiện theo cách này. Chỉ có sự kiểm soát trực tiếp trải nghiệm, khả năng chuyển hóa mọi thứ chúng ta làm thành niềm vui trong mọi lúc, mới có thể vượt qua được những rào cản để đạt tới sự viên mãn.
NGUỒN GỐC CỦA SỰ BẤT MÃN
Nguyên do hàng đầu khiến hạnh phúc là điều khó đạt được chính là vũ trụ vốn không được thiết kế với sự nhàn hạ trong tâm trí nhân loại. Vũ trụ gần như rộng lớn đến vô cùng và phần lớn là trống rỗng và lạnh lẽo. Nó được thiết lập với tính bạo lực khủng khiếp, như khi một ngôi sao phát nổ, nó sẽ biến tất cả mọi thứ trong phạm vi hàng tỉ dặm thành tro bụi. Hành tinh hiếm hoi mà trường hấp dẫn không nghiền nát xương khớp của chúng ta có lẽ đang bơi trong khí độc. Ngay cả Trái đất, nơi có thể được xem là thanh bình và đẹp như tranh vẽ, cũng không phải là đương nhiên dành sẵn cho chúng ta. Để tồn tại được trên nó, nhân loại đã phải vật lộn hàng triệu năm để chống lại băng tuyết, lửa, lụt lội, động vật hoang dã và những vi sinh vật gần như vô hình có thể xuất hiện từ bất cứ đâu để cướp đi sinh mạng con người.
Dường như cứ mỗi lần chúng ta tránh được một mối hiểm nguy rình rập, thì một mối đe dọa mới, tinh vi hơn, lại xuất hiện ở phía trước. Chẳng bao lâu sau khi chúng ta sáng chế ra một loại chất mới, thì các sản phẩm phụ của nó đã bắt đầu làm nhiễm độc môi trường. Trong suốt lịch sử, vũ khí được thiết kế để đảm bảo an ninh rốt cuộc trở ngược đe dọa phá hủy chính những người tạo ra chúng. Khi một số căn bệnh được chế ngự, những căn bệnh mới hiểm nghèo hơn xuất hiện; và nếu trong một giai đoạn mà tỉ lệ tử vong giảm xuống, thì tình trạng quá tải dân số bắt đầu ám ảnh chúng ta. Tứ Kỵ sĩ Khải Huyền chẳng bao giờ ở xa chúng ta cả. Trái đất có thể là ngôi nhà duy nhất của chúng ta, nhưng nó là một ngôi nhà đầy những cái bẫy chết chóc đang chực chờ sập lại bất cứ lúc nào.
Vũ trụ không xuất hiện và được xếp đặt ngẫu nhiên trong một hàm toán học trừu tượng. Những chuyển động của các ngôi sao, những chuyển đổi năng lượng xảy ra có thể được tiên đoán và được giải thích đủ rõ ràng. Nhưng các diễn trình tự nhiên không màng đến các mong muốn của con người. Chúng không nghe và không nhìn đến những nhu cầu của chúng ta và do đó chúng vận hành ngẫu nhiên trái ngược với trật tự mà chúng ta nỗ lực thiết lập thông qua các mục tiêu của mình. Một thiên thạch trong lộ trình va chạm với thành phố New York có thể đang tuân theo tất cả các quy luật của vũ trụ, nhưng nó vẫn sẽ là một mối thiệt hại đáng nguyền rủa. Những con vi–rút tấn công các tế bào trên cơ thể của nhạc sĩ Mozart chỉ đang thực hiện những gì đến một cách tự nhiên, cho dù nó gây ra một sự mất mát nghiêm trọng cho nhân loại. “Vũ trụ không có ý thù địch, song nó cũng không thân thiện”, theo lời của J. H. Holmes. “Nó đơn giản là không quan tâm.”
Hỗn loạn là một trong những khái niệm lâu đời nhất trong thần thoại và tôn giáo. Nó khá xa lạ với lĩnh vực khoa học vật lý và sinh học, vì dựa theo các nguyên tắc của những phạm trù đó, các sự kiện trong vũ trụ là hoàn toàn hợp lý. Ví dụ, “lý thuyết hỗn loạn” trong các ngành khoa học đều cố gắng mô tả một cách có quy tắc những gì xảy ra dường như hoàn toàn ngẫu nhiên. Nhưng sự hỗn loạn có một ý nghĩa khác biệt trong tâm lý học và trong các lĩnh vực khoa học về con người khác, bởi vì nếu mục tiêu và ham muốn của con người được lấy làm điểm khởi đầu, thì sẽ tồn tại sự hỗn loạn không thể hóa giải được trong vũ trụ.
Không có nhiều điều mà chúng ta, với tư cách cá nhân, có thể làm được để thay đổi cách vũ trụ vận hành. Trong suốt cuộc đời mình, chúng ta gây được rất ít ảnh hưởng lên những lực tác động vốn cản trở hạnh phúc của mình. Điều quan trọng là nỗ lực hết sức có thể để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, bãi bỏ bất công xã hội, loại trừ nạn đói và bệnh tật. Song sẽ là khôn ngoan khi chúng ta không mong đợi rằng những nỗ lực thay đổi các điều kiện bên ngoài sẽ ngay lập tức cải thiện chất lượng cuộc sống của mình. Như J. S. Mill đã viết, “Chẳng có sự cải thiện vĩ đại nào cho cuộc sống nhân loại là khả dĩ cho tới khi có một sự thay đổi vĩ đại trong sự cấu thành cơ bản phương thức suy nghĩ của họ”.
Chúng ta cảm nhận thế nào về chính mình, về niềm vui mà chúng ta nhận được từ cuộc sống, rốt cuộc lại phụ thuộc trực tiếp vào cách tâm trí lọc lựa và diễn giải những trải nghiệm hằng ngày. Cho dù việc chúng ta có hạnh phúc hay không phụ thuộc vào sự hài hòa bên trong chứ không dựa vào sự kiểm soát những gì chúng ta có thể làm với các lực tác động to lớn của vũ trụ, thì chắc chắn chúng ta vẫn nên tiếp tục học cách làm chủ môi trường bên ngoài, bởi vì sự sinh tồn về thể lý của chúng ta có thể phụ thuộc vào chuyện đó. Nhưng sự làm chủ như thế sẽ không góp thêm chút nào vào cảm giác tốt đẹp mà ta cảm nhận với tư cách cá nhân, hay làm giảm sự hỗn loạn của thế giới khi chúng ta trải nghiệm nó. Để làm được chuyện đó, chúng ta phải học cách đạt được sự tự chủ về ý thức.
Mỗi chúng ta đều có một bức tranh, dù mơ hồ, về những gì mình muốn hoàn thành trước khi chết. Mức độ tiếp cận tới mục tiêu này sẽ trở thành thước đo cho chất lượng cuộc sống của chúng ta. Nếu nó vẫn còn xa hơn tầm với, chúng ta trở nên oán giận hoặc từ bỏ; nếu đạt được ít nhất một phần, chúng ta trải nghiệm một cảm giác hạnh phúc và hài lòng.
Đối với phần đông nhân loại trên Trái đất này, các mục tiêu cuộc sống của họ rất đơn giản: sinh tồn, giúp con cái sinh tồn và nếu có thể, đạt được những mục tiêu đó trong sự thoải mái và giữ được phẩm giá. Trong các khu ổ chuột lan rộng quanh các thành phố Nam Mỹ, ở các vùng hạn hán ở châu Phi, giữa hàng triệu người Á châu phải giải quyết cơn đói ngày qua ngày, chẳng có điều gì khác đáng mong mỏi hơn.
Nhưng ngay sau khi những vấn đề sinh tồn cơ bản đã được giải quyết, việc đơn thuần có đủ thực phẩm và một nơi trú ẩn thoải mái không còn đủ khiến người ta hài lòng nữa. Những nhu cầu mới được hình thành, những ham muốn mới nảy sinh. Với sự giàu có và quyền lực trở thành những kỳ vọng không ngừng leo thang và khi mức độ giàu có và tiện nghi tiếp tục tăng lên, thì cảm giác hạnh phúc mà chúng ta hy vọng đạt được tiếp tục lùi xa. Khi Cyrus Đại đế có mười nghìn đầu bếp chuẩn bị các món ăn mới trên bàn ăn của ông ta, thì phần còn lại của đất nước Ba Tư hầu như không đủ ăn. Ngày nay, mỗi hộ gia đình trong “thế giới thứ nhất” đều có thể sử dụng các công thức nấu ăn của những vùng đất đa dạng nhất và có thể sửa soạn những bữa tiệc thịnh soạn y hệt của các vị hoàng đế trong quá khứ. Nhưng điều này có khiến chúng ta hài lòng hơn không?
Nghịch lý của sự gia tăng kỳ vọng này đưa ra giả thuyết rằng việc cải thiện chất lượng cuộc sống có thể là một nhiệm vụ bất khả thi. Thực tế, chẳng có vấn đề cố hữu nào trong khát khao làm leo thang những mục tiêu của chúng ta chừng nào chúng ta còn biết thưởng thức những tranh đấu trên đường đi. Vấn đề nảy sinh khi người ta bị gắn chặt với những gì họ muốn đạt được mà không còn cảm nhận được niềm vui từ hiện tại. Khi điều đó xảy ra, họ đánh mất khả năng mãn nguyện.
Mặc dù bằng chứng cho thấy rằng hầu hết mọi người đều bị cuốn vào guồng quay tuyệt vọng của những kỳ vọng không ngừng gia tăng này, nhiều cá nhân đã tìm ra được những cách thức để thoát khỏi nó. Họ là những người, bất kể điều kiện vật chất như thế nào, vẫn có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bản thân, là những người cảm thấy hài lòng và là những người biết cách làm cho những người xung quanh họ cũng cảm thấy hạnh phúc hơn ít nhiều.
Những cá nhân như thế sống cuộc đời lành mạnh, cởi mở với nhiều trải nghiệm khác nhau, tiếp tục học hỏi cho đến ngày lìa đời; họ có những mối liên hệ và sự cam kết mạnh mẽ với người khác và với môi trường họ đang sống. Họ thưởng thức bất cứ điều gì họ làm, ngay cả khi nó tẻ nhạt và đầy khó khăn; họ hầu như không bao giờ cảm thấy chán chường và họ có thể thực hiện bất cứ điều gì theo cách riêng của họ. Có lẽ sức mạnh lớn nhất của họ là kiểm soát được cuộc sống của chính mình. Ở phần sau quyển sách chúng ta sẽ thấy họ đã xoay xở như thế nào để đạt tới trạng thái này. Nhưng trước khi làm vậy, chúng ta cần xem xét một số công cụ mà chúng ta đã phát triển theo thời gian để bảo vệ bản thân chống lại mối đe dọa của sự hỗn loạn và lý do tại sao các biện pháp phòng vệ bên ngoài thường không hiệu quả.
NHỮNG LÁ CHẮN VĂN HÓA
Suốt quá trình tiến hóa của nhân loại, khi mỗi nhóm người dần dần nhận thức được mức độ nghiêm trọng của việc bị cô lập trong vũ trụ và tính bấp bênh mà sự cô lập ấy tạo ra cho sự sinh tồn của mình, họ đã xây dựng các câu chuyện thần thoại và các niềm tin nhằm biến những lực tác động mang tính phá hoại và ngẫu nhiên thành những mô thức có thể quản chế được, hay chí ít là có thể hiểu được. Một trong những chức năng chính của mọi nền văn hóa là bảo vệ các thành viên của nó khỏi sự hỗn loạn, để cam đoan với họ về tầm quan trọng cũng như thành công sau cùng của họ. Người Eskimo, các thợ săn ở lưu vực Amazon, người Trung Quốc, người Navajo, thổ dân Úc, cư dân New York – tất thảy đều mặc nhiên cho rằng họ đang sống ở trung tâm vũ trụ và họ đặc biệt được sắp đặt bởi tạo hóa trên con đường tốc hành đến tương lai. Không có niềm xác tín vào những đặc quyền độc nhất như vậy, con người sẽ rất khó đối mặt với ván cược sinh tồn.
Đây là điều nên xảy ra. Nhưng cũng có những lúc cái cảm giác rằng người ta đã tìm thấy sự an toàn giữa lòng một vũ trụ thân thiện lại trở thành một điều nguy hiểm. Một niềm tin không thực tế trong các lá chắn, trong các thần thoại văn hóa, có thể dẫn đến sự vỡ mộng nghiêm trọng tương ứng khi chúng thất bại. Điều này có xu hướng xảy ra bất cứ khi nào một nền văn hóa trải qua một giai đoạn may mắn không ngừng và trong một khoảng thời gian dường như họ thực sự đã tìm thấy cách thức kiểm soát các lực của tự nhiên. Khi đó, việc một nhóm người tin rằng họ là những người–được–chọn, những người không cần phải lo sợ bất kỳ trở ngại dù to lớn nào nữa, âu cũng là điều hợp lý. Người La Mã đạt đến thời khắc đó sau nhiều thế kỷ cai trị Địa Trung Hải, người Trung Quốc tự tin về sự ưu việt bất biến của họ trước cuộc chinh phạt của người Mông Cổ và người Aztec cũng vững lòng như thế trước khi có sự xuất hiện của người Tây Ban Nha.
Sự ngạo mạn hay tự phụ thái quá mang tính văn hóa về những gì chúng ta được hưởng từ một vũ trụ vốn chẳng nhạy cảm gì với các nhu cầu của con người này thường dẫn đến rắc rối. Cảm giác an toàn không có gì là đảm bảo ấy sớm muộn cũng dẫn đến một sự thức tỉnh thô bạo. Khi mọi người bắt đầu tin rằng sự tiến bộ là điều hiển nhiên phải đến và cuộc sống vốn dễ dàng, họ có thể nhanh chóng đánh mất lòng can đảm và cả lòng quyết tâm đối mặt với những dấu hiệu đầu tiên của nghịch cảnh. Khi nhận ra rằng điều họ tin tưởng không hoàn toàn đúng, họ từ bỏ đức tin vào mọi thứ khác mà họ từng biết. Bị tước đoạt sự hậu ủng thường lệ mà các giá trị văn hóa đã trao cho họ, họ vùng vẫy trong vũng lầy của sự lo lắng và thờ ơ.
Ngày nay, những biểu hiện của sự vỡ mộng như thế không khó để quan sát thấy xung quanh chúng ta. Những biểu hiện rõ ràng nhất liên quan đến thái độ hờ hững đang lan rộng, ảnh hưởng đến rất nhiều cuộc đời. Những cá nhân thật sự hạnh phúc rất ít ỏi và lẻ tẻ. Có bao nhiêu người bạn quen biết thực sự thưởng thức những điều họ đang làm; có bao nhiêu người cảm thấy hài lòng vừa phải với số phận của họ, bao nhiêu người không hối tiếc khi nhìn về quá khứ và nhìn về tương lai với niềm tin chân thành? Nếu Diogenes với chiếc đèn lồng của ông cách đây hai mươi ba thế kỷ đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm một con người trung thực, thì ngày nay ông có lẽ sẽ có một giai đoạn phiền phức hơn nhiều để tìm ra một con người hạnh phúc.
Sự bất ổn chung này không trực tiếp đến từ những nguyên nhân bên ngoài. Không giống nhiều quốc gia khác trong thế giới đương đại, nước Mỹ không thể đổ lỗi các vấn đề của mình cho môi trường khắc nghiệt, cho sự nghèo khổ trên diện rộng hay cho sự đàn áp của quân đội nước ngoài chiếm đóng. Gốc rễ của sự bất mãn đến từ bên trong và mỗi người phải đích thân tự gỡ rối cho mình, bằng sức mạnh của chính mình. Những lá chắn đã từng hoạt động trong quá khứ – trật tự tôn giáo, lòng ái quốc, truyền thống dân tộc và các thói quen được thấm nhiễm bởi các tầng lớp xã hội – không còn hiệu quả nữa trong việc ngăn chặn sự gia tăng số người cảm thấy bị ném vào những cơn gió khắc nghiệt của sự hỗn loạn.
Việc thiếu sự trật tự bên trong tự thể hiện mình trong điều kiện chủ quan, mà một số gợi lên sự lo âu mang tính bản thể hoặc cảm giác sợ hãi sự tồn tại. Về cơ bản, đó là nỗi sợ hãi việc tồn tại, một cảm giác rằng cuộc sống không có ý nghĩa gì và sự tồn tại là điều gì đó không xứng đáng diễn ra. Dường như không điều gì là có nghĩa lý. Trong một vài thế hệ gần đây, bóng ma của chiến tranh hạt nhân đã mang đến thêm một mối đe dọa chưa từng có đối với những niềm hy vọng của nhân loại. Dường như không còn bất kỳ điểm tựa nào cho những đấu tranh lịch sử của loài người. Chúng ta chỉ là những đốm sáng nhỏ nhoi bị quên lãng và trôi nổi trong khoảng không vô tận. Với mỗi một năm trôi qua, sự hỗn loạn của vũ trụ vật lý trở nên phóng đại hơn trong tâm trí của số đông.
Khi mọi người từng bước đi qua cuộc sống, đi từ niềm hy vọng thơ ngây của tuổi trẻ đến sự nghiêm túc của tuổi trưởng thành, họ sớm muộn cũng phải đối mặt với một câu hỏi ngày càng rầy rà: “Đây là tất cả sao?”. Thời thơ ấu có thể đớn đau, tuổi niên thiếu có thể rối rắm, mơ hồ, nhưng đối với hầu hết mọi người, đằng sau tất cả những điều đó chính là sự kỳ vọng rằng sau này khi lớn lên, mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn. Trong những năm tháng đầu tiên của tuổi trưởng thành, tương lai là thứ gì đó trông vẫn đầy hứa hẹn và vẫn tồn tại niềm hy vọng rằng các mục tiêu sẽ được hiện thực hóa. Nhưng chắc chắn rồi chiếc gương treo trong phòng tắm sẽ cho bạn thấy những sợi tóc bạc đầu tiên và xác nhận thực tế rằng số cân thừa không có vẻ gì là sắp rời đi; chắc chắn rồi thị lực bắt đầu gặp những sai sót đầu tiên và những cơn đau bí ẩn bắt đầu chạy qua cơ thể. Giống như những người phục vụ trong nhà hàng bắt đầu đặt bữa sáng lên những bàn xung quanh trong khi có người vẫn đang ăn tối, những báo hiệu chết chóc đó truyền đi thông điệp một cách rõ ràng: Thời gian của bạn đã hết, đã đến lúc phải đi rồi! Khi điều này xảy đến, rất ít người trong trạng thái sẵn sàng. “Đợi đã, chuyện này không thể xảy ra với tôi. Tôi thậm chí chưa bắt đầu sống. Tất cả số tiền tôi tin là mình sẽ kiếm được đâu rồi? Tất cả những khoảng thời gian tốt đẹp tôi tin là mình sẽ có đâu rồi?”
Cảm giác bị dắt mũi, bị lừa gạt là hệ quả dễ hiểu từ nhận thức kể trên. Ngay từ những năm đầu đời, chúng ta đã được tạo điều kiện để tin rằng một số phận tốt đẹp sẽ dành cho mình. Xét cho cùng, mọi người dường như đều nhất trí rằng chúng ta đã may mắn vô cùng khi được sống ở đất nước giàu có nhất từng tồn tại, trong giai đoạn khoa học tiên tiến nhất của lịch sử loài người, được vây quanh bởi những công nghệ hiệu quả nhất, được bảo vệ bởi nền Hiến pháp khôn ngoan nhất. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi mong đợi rằng chúng ta sẽ có một cuộc sống sung túc hơn, ý nghĩa hơn bất cứ thành viên nào trước đó của nhân loại. Nếu tổ tiên của chúng ta sống trong thời quá khứ thô sơ kia vẫn có thể cảm thấy hài lòng thỏa mãn thì tưởng tượng xem chúng ta có thể thấy hạnh phúc đến thế nào! Các nhà khoa học nói với chúng ta như vậy, điều đó đã được rao giảng từ các bục giảng nhà thờ và đã được xác nhận bởi hàng ngàn quảng cáo truyền hình chúc tụng cho cuộc sống tốt đẹp. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những sự đảm bảo này, sớm muộn gì chúng ta cũng thức dậy một mình, cảm giác rằng không có cách nào để thế giới giàu có, khoa học và khôn khéo này có thể mang đến cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Khi sự nhận thức này dần dần bắt đầu xuất hiện, những người khác nhau phản ứng với nó theo những cách khác nhau. Một số cố gắng phớt lờ nó và đổi mới những nỗ lực của họ để đạt nhiều hơn những thứ được cho là sẽ giúp cuộc sống tốt đẹp hơn, một chiếc xe đắt tiền hơn, một ngôi nhà lớn hơn, nhiều quyền lực hơn trong công việc và một lối sống hào nhoáng hơn. Họ đổi mới những nỗ lực của họ, xác nhận bản thân vẫn đạt được sự thỏa mãn cho đến khi lảng tránh được nhận thức ấy. Đôi khi giải pháp này có hiệu quả, đơn giản chỉ vì khi người ta bị kéo vào một cuộc cạnh tranh thì họ không còn thời gian để nhận ra rằng mục tiêu đã chẳng hề đạt đến gần hơn. Nhưng nếu một người không dành thời gian để suy ngẫm, sự vỡ mộng sẽ trở lại: sau mỗi thành công, càng lúc càng trở nên rõ ràng hơn rằng tiền bạc, quyền lực, địa vị và tài sản tự chúng không tất yếu làm gia tăng chất lượng cuộc sống một mảy may nào.
Những người khác quyết định tấn công trực diện vào các triệu chứng đang đe dọa. Nếu vấn đề là cơ thể bắt đầu rung hồi chuông cảnh báo đầu tiên, họ sẽ tiến hành chế độ ăn kiêng, tham gia câu lạc bộ sức khỏe, tập thể dục nhịp điệu hoặc đi phẫu thuật thẩm mỹ. Nếu vấn đề của họ là không nhận được sự chú ý từ người khác, họ sẽ tìm đọc những đầu sách về cách có được quyền lực hay làm thế nào để kết bạn, hoặc họ ghi danh vào các khóa đào tạo về sự quyết đoán và tham dự các buổi ăn trưa với mục đích kết giao. Tuy nhiên, sau một thời gian, rõ ràng là các giải pháp cục bộ này cũng không hiệu quả. Bất kể chúng ta dành bao nhiêu năng lượng để tự chăm sóc bản thân, cơ thể vẫn dần dần kiệt quệ. Nếu học cách để trở nên quyết đoán hơn, chúng ta có thể vô tình xa lánh bạn bè của mình. Và nếu chúng ta dành quá nhiều thời gian để nuôi dưỡng những mối quan hệ bạn bè mới, chúng ta có thể tổn hại mối quan hệ với người phối ngẫu và gia đình mình. Có quá nhiều con đê sắp vỡ và có quá ít thời gian để trông nom tất cả chúng.
Bị khuất phục bởi sự vô ích của việc cố gắng theo kịp mọi ham muốn vốn không thể đáp ứng nổi, một số người sẽ đầu hàng và rút lui một cách lịch thiệp vào sự lãng quên tương xứng. Làm theo lời khuyên của Candide, họ sẽ từ bỏ thế giới rộng lớn và chú tâm vun trồng những mảnh vườn nhỏ của riêng mình. Họ có thể học đòi những hình thức thoát ly thực tế đúng mốt như phát triển một sở thích vô hại hay tích lũy một bộ sưu tập các bức tranh trừu tượng hay các bức tượng bằng sứ nhỏ. Hoặc họ có thể đánh mất chính mình trong rượu chè hay trong thế giới đầy mộng ảo của ma túy. Trong khi những thú vui kỳ lạ và những thú tiêu khiển đắt tiền làm xao nhãng tâm trí nhất thời khỏi câu hỏi căn bản “Đây là tất cả sao?”, thì rất ít người thừa nhận rằng họ từng tìm được câu trả lời theo cách thức đó.
Theo truyền thống, vấn đề về sự tồn tại đã được đương đầu một cách trực diện nhất thông qua tôn giáo và việc gia tăng số lượng những sự vỡ mộng đang khiến người ta quay lại với điều đó, lựa chọn một trong các tín ngưỡng tiêu chuẩn hoặc một hình thái tín ngưỡng Đông phương bí truyền hơn. Nhưng các tôn giáo chỉ là những nỗ lực thành công nhất thời trong việc ứng phó với sự thiếu thốn ý nghĩa cuộc sống; chúng không phải là câu trả lời vĩnh cửu. Tại một số thời điểm trong lịch sử, chúng đã lý giải một cách thuyết phục về vấn đề sự hiện hữu của con người và đã đưa ra những câu trả lời đáng tin cậy. Từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII trong kỷ nguyên của chúng ta, Kitô giáo đã lan rộng khắp châu Âu, Hồi giáo đã nảy sinh tại Trung Đông và Phật giáo đã chinh phục châu Á. Hàng trăm năm qua, những tôn giáo này đã cung cấp những mục tiêu hết sức thuyết phục để mọi người dành cả cuộc đời mình theo đuổi. Thế nhưng ngày nay sẽ khó khăn hơn để chấp nhận những thế giới quan của các tôn giáo này là tối hậu. Hình thức mà các tôn giáo trình bày các chân lý của họ – các thần thoại, những sự mặc khải, các thánh thư – không còn đủ sức củng cố các niềm tin tôn giáo trong một kỷ nguyên của lý tính khoa học nữa, mặc dù bản chất của các chân lý có thể vẫn không có gì thay đổi. Một tôn giáo quan trọng mới có thể sẽ ra đời lần nữa vào một ngày nào đó. Trong lúc đó, những ai tìm kiếm sự an ủi trong các nhà thờ hiện nay thường phải đánh đổi cho sự yên tâm của họ bằng một thỏa thuận ngầm là bỏ qua rất nhiều những hiểu biết về cách thức mà thế giới này thật sự vận hành.
Bằng chứng cho thấy rằng không có giải pháp nào trong số này còn hiệu quả nữa là không thể chối cãi. Trong thời hoàng kim của sự hào nhoáng mang tính vật chất này, xã hội của chúng ta đang trải qua một loạt các chứng bệnh lạ lùng. Lợi nhuận thu được từ sự phụ thuộc vào các chất cấm lan rộng đang làm giàu cho những kẻ giết người và bọn khủng bố. Dường như trong tương lai gần, chúng ta có khả năng bị cai trị bởi những đầu sỏ chính trị từng là kẻ buôn ma túy, những kẻ đang nhanh chóng đạt được sự giàu có và quyền lực bằng phí tổn là những công dân tuân thủ pháp luật. Và trong đời sống tình dục, bằng cách cởi bỏ những xiềng xích được coi là “đạo đức giả”, chúng ta đã phóng thích những con vi–rút hủy hoại lẫn nhau.
Các xu hướng thường phiền nhiễu đến nỗi chúng ta có khuynh hướng trở nên mệt mỏi và lảng tránh bất cứ khi nào nghe được các số liệu thống kê mới nhất. Nhưng dùng “chiến lược đà điểu” nhằm trốn tránh tin xấu là cực kỳ không hiệu quả; tốt hơn là đối diện sự thật và cẩn trọng để tránh trở thành một trong những người mà số liệu thống kê nói tới. Cũng có những số liệu có thể trấn an một số người: chẳng hạn, trong ba mươi năm vừa qua, chúng ta đã tăng gấp đôi số năng lượng sử dụng bình quân đầu người – phần lớn nhờ vào sự tăng gấp năm lần việc sử dụng các thiết bị và các tiện ích điện. Tuy nhiên, các xu hướng khác lại không làm chúng ta thấy an tâm chút nào. Năm 1984, vẫn còn ba mươi bốn triệu người Mỹ sống dưới mức nghèo khổ (được định nghĩa là có mức thu nhập năm bằng hoặc ít hơn 10.609 đô-la cho một gia đình có bốn miệng ăn), một con số vốn thay đổi rất ít qua các thế hệ.
Ở Hoa Kỳ, tỉ lệ bình quân đầu người về tội phạm bạo lực – giết người, hiếp dâm, cướp bóc, tấn công – tăng hơn 300% trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến 1986. Gần đây, như năm 1978, có 1.085.500 tội phạm như vậy đã được báo cáo và đến năm 1986 con số đã lên đến 1.488.140. Tỉ lệ tội phạm giết người đã giữ ổn định ở mức khoảng 1000% (gấp mười lần) so với các quốc gia công nghiệp hóa khác như Canada, Na Uy hoặc Pháp. Trong cùng khoảng thời gian đó, tỉ lệ ly hôn đã tăng khoảng 400%, từ 31 trên 1.000 cặp vợ chồng kết hôn vào năm 1950 lên đến 121 trên 1.000 vào năm 1984. Trong suốt hai mươi lăm năm đó, bệnh hoa liễu đã tăng gấp ba lần; năm 1960 có 259.000 ca mắc bệnh lậu và đến năm 1984 đã có gần 900.000. Chúng ta vẫn chưa có sự mường tượng rõ ràng nào về cái giá bi thảm mà tai họa gần nhất, đại dịch AIDS, sẽ tuyên bố trước khi nó thực sự cáo chung.
Sự gia tăng ba đến bốn lần các căn bệnh xã hội trong thế hệ gần nhất của chúng ta cũng diễn ra với con số đáng kinh ngạc y như các lĩnh vực khác. Ví dụ, năm 1955 có 1.700.000 trường hợp can thiệp lâm sàng liên quan đến các bệnh nhân tâm thần trên toàn quốc, thì đến năm 1975 con số đã leo lên tới 6.400.000. Có lẽ không phải ngẫu nhiên, những số liệu tương tự cũng minh họa cho sự gia tăng độ hoang tưởng của đất nước chúng ta: trong suốt thập kỷ từ 1975 đến 1985, ngân sách được ủy quyền cho Bộ Quốc phòng leo thang từ 87,9 tỉ đô–la một năm lên đến 284,7 tỉ đô–la – tăng gấp ba lần. Đúng là ngân sách dành cho Bộ Giáo dục cũng tăng ba lần trong cùng giai đoạn, nhưng vào năm 1985, ngân sách này chỉ có 17,4 tỉ đô-la. Ít nhất là xét trên phương diện phân bổ các nguồn lực đáng quan tâm, thì “thanh gươm” đang nặng gấp mười sáu lần so với “ngòi bút”.
Tương lai chẳng có vẻ sáng sủa là bao. Thanh thiếu niên ngày nay bộc lộ những triệu chứng của tình trạng bất ổn làm khổ sở những người lớn, đôi khi còn ở một dạng thức độc hại hơn trước. Ngày nay, ngày càng ít những người trẻ được lớn lên trong các gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều có mặt để cùng gánh vác các trách nhiệm liên quan đến việc nuôi dạy con cái. Năm 1960 chỉ có một trong số mười trẻ vị thành niên đang sống trong một gia đình chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân. Đến năm 1980, tỉ lệ này đã tăng gấp đôi và vào năm 1990 nó được dự đoán sẽ tăng gấp ba lần. Năm 1982, có hơn 80.000 người chưa thành niên – độ tuổi trung bình là mười lăm – bị bắt giam trong nhiều kiểu nhà tù khác nhau. Các con số thống kê về việc sử dụng ma túy, mắc bệnh hoa liễu, bỏ nhà và mang thai trước hôn nhân đều đáng lo ngại, song đó chỉ mới là một phần nhỏ của vấn đề. Từ năm 1950 đến 1980, số lượng vị thành niên tự tử đã tăng khoảng 300%, đặc biệt trong số đó có cả những thiếu niên da trắng đến từ những tầng lớp giàu có. Trong số 29.253 trường hợp tự tử được báo cáo năm 1985, có 1.339 nam thanh thiếu niên da trắng trong độ tuổi từ mười lăm đến mười chín, ít hơn bốn lần những thiếu nữ da trắng cùng độ tuổi và ít hơn mười lần những thanh thiếu niên da đen (tuy nhiên, ở thanh niên da đen số người chết vì bị giết còn nhiều hơn). Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, trình độ hiểu biết trong dân chúng dường như lại bị giảm dần ở khắp mọi nơi. Chẳng hạn, điểm toán trung bình trong kỳ thi SAT vào năm 1967 là 466; năm 1984 con số này là 426. Một sự suy giảm tương tự đã được ghi nhận trong điểm số của các môn ngôn ngữ. Và những con số thống kê đáng buồn như thế có thể tiếp tục dài thêm.
Tại sao mọi chuyện lại ra nông nỗi này, bất chấp việc đã đạt được những phép màu chưa từng thấy trong tiến trình phát triển của mình, thì so với tổ tiên vốn có ít đặc quyền hơn, chúng ta dường như ngày càng bất lực hơn khi đối mặt với cuộc sống? Câu trả lời hẳn cũng rất rõ ràng: trong khi tập thể nhân loại đã gia tăng sức mạnh vật chất lên một ngàn lần, thì nó đã không tiến xa chút nào trong việc cải thiện nội dung của các trải nghiệm.
CẢI TẠO TRẢI NGHIỆM
Không có lối thoát nào cho tình trạng bất như ý này trừ khi một cá nhân tự ứng phó với nó. Nếu các giá trị và các thể chế không còn cung cấp một khuôn khổ hỗ trợ như chúng đã từng nữa thì mỗi cá nhân phải sử dụng bất cứ công cụ nào sẵn có để tạo ra một cuộc sống có ý nghĩa và đầy thú vị cho chính mình. Một trong những công cụ quan trọng nhất trong cuộc truy tầm này được cung cấp bởi lĩnh vực tâm lý học. Cho đến nay, đóng góp chính yếu mà lĩnh vực khoa học non trẻ này mang lại chính là khám phá ra các sự kiện trong quá khứ đã soi chiếu cho các hành vi ở hiện tại như thế nào. Nó đã giúp chúng ta nhận biết được rằng sự phi lý ở tuổi trưởng thành thường là kết quả của những thất vọng đớn đau ở tuổi ấu thơ. Nhưng còn có một cách thức khác mà bộ môn tâm lý học có thể được áp dụng. Chính là trong việc trả lời cho câu hỏi: Cho dù chúng ta là ai, với bất kỳ sự bất an và dồn nén nào, đâu là điều chúng ta có thể làm để cải thiện tương lai của mình?
Để vượt qua những lo âu và suy sụp của cuộc sống hiện đại, các cá nhân phải trở nên độc lập với môi trường xã hội đến mức họ không còn phản ứng một cách rập khuôn dựa theo sự thưởng phạt của nó nữa. Để đạt được sự tự chủ ấy, người ta phải học cách tự trao các phần thưởng cho chính mình. Người đó phải phát triển khả năng tìm thấy sự thưởng thức và mục đích, bất chấp các điều kiện ngoại cảnh. Thử thách này nghe có vẻ vừa dễ hơn mà cũng vừa khó hơn: dễ hơn, vì khả năng làm được việc đó hoàn toàn nằm trong tầm tay của mỗi người; khó hơn, vì nó đòi hỏi một sự kỷ luật và kiên trì vốn tương đối hiếm hoi trong mọi thời đại, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Và trước hết, việc đạt được khả năng kiểm soát các trải nghiệm đòi hỏi một sự thay đổi quyết liệt trong quan điểm về việc cái gì được xem là quan trọng và cái gì thì không.
Chúng ta lớn lên với niềm tin rằng những gì đáng giá nhất trong cuộc đời của mình sẽ xuất hiện ở tương lai. Các bậc cha mẹ dạy con cái rằng nếu chúng học được các thói quen tốt bây giờ thì chúng sẽ trở nên tốt đẹp khi trưởng thành. Các giáo viên đảm bảo với học sinh, sinh viên rằng các lớp học nhàm chán sẽ có lợi ích sau này, khi họ tìm việc làm. Phó chủ tịch công ty dặn dò các nhân viên mới hãy kiên nhẫn và làm việc chăm chỉ, vì một ngày nào đó họ sẽ được thăng chức lên cấp bậc điều hành. Ở cuối cuộc hành trình đấu tranh dai dẳng cho sự thăng tiến là những năm tháng nghỉ hưu tuyệt vời đang vẫy gọi. Như Ralph Waldo Emerson đã từng nói: “Chúng ta luôn chuẩn bị để sống, nhưng chúng ta chưa bao giờ thực sự sống”. Hay như những người nghèo ở Pháp đã học được từ truyện kể thiếu nhi, rằng luôn luôn là bánh mì và mứt cho ngày mai, chứ chẳng bao giờ là bánh mì và mứt cho hôm nay.
Dĩ nhiên việc nhấn mạnh vào sự trì hoãn cảm giác hài lòng ở một mức độ nhất định này là điều không thể tránh khỏi. Như Freud và nhiều người khác trước và sau ông đã nhận thấy, nền văn minh vốn được xây dựng dựa trên sự kiềm chế các ham muốn cá nhân. Sẽ không thể duy trì bất kỳ kiểu trật tự xã hội nào, bất kỳ sự phân công lao động phức tạp nào, trừ khi các thành viên trong xã hội bị buộc phải học lấy những thói quen và kỹ năng mà nền văn minh đòi hỏi, bất kể cá nhân đó có thích điều ấy hay không. Sự xã hội hóa, hay sự chuyển hóa của một sinh thể người thành một cá nhân có khả năng hoạt động thành công trong một hệ thống xã hội đặc thù, là không thể tránh được. Bản chất của sự xã hội hóa là khiến mọi người lệ thuộc vào những kiểm soát mang tính xã hội, để khiến họ phản ứng một cách dự đoán được với các phần thưởng cũng như hình phạt. Và hình thức hiệu quả nhất của tiến trình xã hội hóa đạt được khi mọi người nhất trí triệt để với một trật tự xã hội mà họ không còn hình dung việc mình sẽ phá bỏ bất kỳ quy tắc nào trong đó nữa.
Xã hội, trong quá trình khiến chúng ta vận hành cho những mục tiêu của nó, được hậu thuẫn bởi một số liên minh đầy sức mạnh: các nhu cầu sinh lý và sự điều kiện hóa về mặt di truyền của chúng ta. Tất cả những sự kiểm soát xã hội, xét cho cùng đều dựa trên mối đe dọa tới bản năng sinh tồn. Những người sống ở các quốc gia bị áp bức phục tùng những kẻ chinh phạt chỉ vì họ muốn được sống. Mãi cho tới gần đây, luật lệ ở cả những quốc gia văn minh nhất (như Anh Quốc) cũng được thực thi nhờ sự chế tài của các hình phạt như đánh bằng gậy, quật bằng roi, cắt xẻo, hoặc xử tử.
Khi không dựa vào nỗi đau đớn, các hệ thống xã hội sử dụng sự khoái lạc như sự khích lệ cho việc chấp nhận các chuẩn mực. “Đời sống tốt đẹp” được hứa hẹn như một sự tưởng thưởng cho một cuộc đời làm lụng cần mẫn và sự tuân thủ luật pháp được xây dựng dựa trên những khao khát nằm trong lập trình di truyền của chúng ta. Thực tế, mọi ham muốn vốn đã trở thành một phần tự nhiên của con người – từ bản năng giới tính cho đến sự xâm lấn, từ khao khát an toàn cho đến tính tiếp thu để thay đổi – đều đã được khai thác như một nguồn lực cho sự kiểm soát xã hội của các chính trị gia, các nhà thờ, các tập đoàn và các nhà quảng cáo. Để thu hút tân binh cho các lực lượng vũ trang Thổ Nhĩ Kỳ, các vị vua ở thế kỷ XVI đã hứa sẽ ghi công họ bằng các phần thưởng là được phép hiếp dâm phụ nữ của các lãnh thổ họ chinh phạt được; ngày nay các áp–phích quảng cáo thì hứa hẹn với các chàng trai trẻ rằng nếu họ gia nhập quân đội, họ sẽ được mở rộng tầm mắt, được “nhìn ra thế giới”.
Cần thiết nhận ra rằng việc tìm kiếm khoái lạc là một phản ứng mang tính phản xạ được gắn trong các gen di truyền của chúng ta để bảo tồn giống loài, chứ không nhắm đến lợi ích của riêng mỗi người. Cảm giác ngon miệng khi ăn là một phương thức hữu hiệu để đảm bảo rằng cơ thể sẽ nhận được các chất dinh dưỡng nó cần. Khoái cảm khi quan hệ tình dục là một phương pháp thực tế không kém của các gen di truyền để lập trình cơ thể sinh sản và nhờ đó đảm bảo sự liên tục của giống nòi. Khi một người đàn ông bị hấp dẫn thể xác bởi một người phụ nữ, hay ngược lại, anh ta thường tưởng tượng – giả sử rằng anh ta có nghĩ về điều đó – rằng ham muốn này là một sự bộc lộ những sở thích cá nhân của anh ta, như một hệ quả từ tình ý của riêng anh. Song trên thực tế, thường thì sự hứng thú của anh ta đơn giản là bị thao túng bởi các mã di truyền vô hình, theo những kế hoạch của riêng chúng. Miễn sự hấp dẫn là một phản xạ dựa trên các phản ứng thuần thể lý thì những trù tính có ý thức của người đó thực ra chỉ đóng một vai trò tối thiểu. Chẳng có gì sai khi làm theo những lập trình di truyền này và thưởng thức những sự khoái lạc mà nó mang đến, miễn là chúng ta nhìn nhận chúng đúng bản chất và miễn chúng ta duy trì được một số sự kiểm soát lên chúng khi ta cần theo đuổi các mục tiêu khác, để có thể quyết định mức độ ưu tiên.
Vấn đề là gần đây có một trào lưu xem bất cứ điều gì chúng ta cảm nhận ở bên trong đều là tiếng nói đích thực của bản chất tự nhiên. Căn cứ duy nhất mà ngày nay nhiều người tin tưởng chính là bản năng. Nếu một điều gì đó cho cảm giác tốt đẹp, nếu nó tự nhiên và tự phát, thì hẳn nó phải đúng. Nhưng khi chúng ta hành động theo những gợi ý của di truyền và những hướng dẫn từ xã hội mà không có sự chất vấn, thì chúng ta từ bỏ sự kiểm soát của ý thức và trở thành những món đồ chơi bất lực của các động lực phi nhân. Những người không thể kháng cự lại việc ăn uống, rượu chè vô độ hay tâm trí của họ lúc nào cũng chú tâm vào tình dục, thì không tự do trong việc điều hướng năng lượng tinh thần của họ.
Quan điểm “giải phóng” bản chất con người, vốn chấp nhận và tán thành mọi bản năng hay động lực mà con người có được đơn giản vì chúng ở sẵn đó, đã đưa đến những hậu quả hoàn toàn phản tiến bộ. Phần lớn “chủ nghĩa hiện thực” đương đại hóa ra chỉ là một biến thể của thuyết tiền định lỗi thời: mọi người cảm thấy được giải thoát khỏi trách nhiệm bằng cách lưu truyền khái niệm về “bản chất”. Tuy nhiên, về bản chất, chúng ta sinh ra vốn chẳng biết gì. Thế sao chúng ta lại không gắng sức mà học hỏi? Một số người sản sinh ra nhiều lượng hoóc–môn androgen hơn thông thường và do đó trở nên hung hăng quá mức. Điều đó có nghĩa là họ có quyền trở thành người gây hấn thái quá hay sao? Chúng ta không thể phủ nhận các sự thật thuộc về bản chất, nhưng chúng ta chắc chắn nên cố gắng cải thiện chúng.
Tuân theo sự lập trình của gen di truyền có thể trở thành việc rất nguy hiểm, vì nó biến chúng ta thành những kẻ bất lực. Một người không thể vượt qua và làm chủ sự dẫn dắt của gen di truyền khi cần thiết sẽ luôn dễ bị tổn thương. Thay vì quyết định hành động thế nào để theo đuổi các mục tiêu cá nhân, anh ta phải đầu hàng trước những thứ mà cơ thể anh ta được lập trình (hoặc lập trình lỗi) để hành động. Con người nhất thiết phải giành được quyền kiểm soát các động lực bản năng để đạt được sự độc lập lành mạnh về mặt xã hội; chừng nào chúng ta còn phản ứng một cách dự đoán được với những gì ta cảm thấy tốt đẹp hay tồi tệ, thì thật dễ để người khác lợi dụng khai thác các sở thích của ta cho mục đích của họ.
Một cá nhân bị xã hội hóa triệt để là người chỉ mong muốn những phần thưởng mà những người xung quanh anh ta đã nhất trí là anh ta nên theo đuổi – những phần thưởng thường được lồng ghép vào các ham muốn được lập trình bởi gen di truyền. Anh ta có thể tiếp xúc hàng ngàn những trải nghiệm có tiềm năng viên mãn, nhưng lại thất bại trong việc nhận biết chúng, vì chúng không nằm trong phạm vi những điều anh ta khao khát. Điều quan trọng với anh không phải những gì anh đang có trong tay lúc này, mà là những gì anh có thể đạt được nếu anh hành động như những gì người khác muốn anh làm. Bị mắc kẹt trong guồng quay của những kiểm soát của xã hội, người này sẽ tiếp tục vươn tới một phần thưởng, vốn luôn luôn tan biến khi nắm được trong lòng bàn tay. Trong một xã hội phức tạp, nhiều nhóm người quyền lực tham gia vào tiến trình xã hội hóa, đôi khi lại hướng đến những mục tiêu có vẻ mâu thuẫn. Một mặt, các tổ chức chính thống như trường học, nhà thờ và ngân hàng cố gắng biến chúng ta thành những công dân có trách nhiệm, sẵn lòng làm việc chăm chỉ và tiết kiệm. Mặt khác, chúng ta không ngừng được mời gọi bởi các thương gia, nhà sản xuất và nhà quảng cáo rằng hãy dành thu nhập của chúng ta chi vào các sản phẩm mà sẽ đem lại vô vàn lợi nhuận cho họ. Và, sau cùng, hệ thống ngầm các thú tiêu khiển bị cấm đoán được vận hành bởi những con bạc, bọn ma cô và những kẻ buôn ma túy, vốn được liên kết một cách sống còn với những thể chế chính thống, hứa hẹn những phần thưởng dễ dàng tiêu tan của chúng – miễn là chúng ta chịu chi. Các thông điệp là rất khác biệt, song kết quả về cơ bản là giống nhau: chúng khiến ta phụ thuộc vào một hệ thống xã hội khai thác năng lượng của chúng ta cho mục đích của riêng chúng.
Không có gì đáng chất vấn với việc để tồn tại, nhất là tồn tại trong một xã hội phức tạp, ta cần làm việc vì những mục tiêu bên ngoài và cần trì hoãn sự thỏa mãn tức thì. Nhưng một con người không nhất thiết phải chịu biến thành một con rối bị thao túng bởi xã hội. Giải pháp là dần dần giải thoát khỏi ràng buộc với những phần thưởng từ xã hội và học cách thay thế chúng bằng những gì nằm trong tầm định đoạt của chính chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta nên từ bỏ mọi mục tiêu mà xã hội công nhận; đúng hơn là bên cạnh, hoặc thay vì, những mục tiêu mà người khác dùng để dụ dỗ chúng ta, ta hãy phát triển một bộ mục tiêu của riêng mình.
Bước quan trọng nhất để giải phóng bản thân ra khỏi sự kiểm soát của xã hội chính là khả năng tìm thấy sự tưởng thưởng trong từng khoảnh khắc cuộc sống. Nếu một người có thể học được cách thưởng thức và tìm thấy ý nghĩa trong dòng trải nghiệm đang diễn ra, trong diễn trình cuộc sống của họ, thì gánh nặng của sự kiểm soát xã hội tự khắc sẽ rơi khỏi đôi vai người ấy. Quyền làm chủ được trả lại cho một cá nhân khi các phần thưởng không còn phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài nữa. Không cần thiết nữa việc đấu tranh cho những mục tiêu dường như luôn bị đẩy lùi đến tương lai, để kết thúc chuỗi ngày nhàm chán với hy vọng rằng ngày mai biết đâu điều tốt đẹp nào đó rồi sẽ xảy ra. Thay vì mãi căng thẳng bởi những phần thưởng trêu ngươi, lơ lửng ngoài tầm với, người ta bắt đầu thu hoạch những sự tưởng thưởng đích thực từ cuộc sống. Nhưng không phải bằng cách chối bỏ chính mình khỏi những ham muốn bản năng để được tự do khỏi sự kiểm soát xã hội. Chúng ta cũng phải trở nên tự chủ với những mệnh lệnh của cơ thể và học cách chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm trí mình. Đau đớn và khoái lạc diễn ra trong ý thức và chỉ tồn tại ở đó. Chừng nào còn tuân phục theo những mô thức kích thích–phản ứng bị điều kiện hóa bởi xã hội, vốn khai thác các khuynh hướng sinh học của chúng ta, thì chúng ta vẫn chịu kiểm soát từ bên ngoài. Trong chừng mực mà một tin quảng cáo đầy mê hoặc còn làm ta thèm muốn sản phẩm được rao bán hay một cái nhíu mày từ cấp trên còn làm hỏng một ngày của chúng ta, thì ta không tự do trong việc quyết định nội dung của trải nghiệm. Vì những gì chúng ta trải nghiệm là thực tại, theo đúng những gì chúng ta để tâm vào, nên ta có thể chuyển hóa thực tại vào một phạm vi mà ở đó ta tác động được những gì xảy ra trong ý thức và nhờ đó giải phóng bản thân khỏi các mối đe dọa và mời gọi của thế giới bên ngoài. “Con người không sợ bất cứ thứ gì, ngoại trừ cách họ nhìn nhận chính mình”, Epictetus đã nói cách đây rất lâu. Và hoàng đế Marcus Aurelius vĩ đại đã viết: “Nếu bạn chịu đau đớn vì những thứ bên ngoài, thì không phải chúng quấy nhiễu bạn, mà bởi chính sự phán xét của bạn về chúng. Và nằm trong chính khả năng của bạn là sức mạnh quét sạch sự phán xét đó ngay bây giờ”.
NHỮNG LỘ TRÌNH CỦA SỰ GIẢI PHÓNG
Sự thật đơn giản này – rằng sự kiểm soát ý thức sẽ quyết định chất lượng cuộc sống – đã được biết đến từ lâu; thực tế, lâu bằng khoảng thời gian sự tồn tại của nhân loại được ghi nhận. Lời khuyên của nhà tiên tri xứ Delphi cổ đại, “Hãy biết chính mình”, đã ngụ ý điều đó. Nó đã được công nhận rõ ràng bởi Aristotle, người có quan niệm về “hoạt động đạo đức của tâm hồn”, theo nhiều cách, đã sớm miêu tả các lập luận trong quyển sách này và nó đã được phát triển bởi các triết gia Khắc kỷ thời cổ đại. Các tu sĩ Kitô giáo đã hoàn thiện các phương pháp khác nhau để học cách định hướng các ý nghĩ và mong muốn của mình. Ignatius nhà Loyola đã hợp lý hóa chúng trong các bài tập tinh thần nổi tiếng của ông. Nỗ lực to lớn gần đây nhất để giải phóng ý thức khỏi sự thống trị của sự thôi thúc bản năng và kiểm soát xã hội là trường phái phân tâm học; như Freud đã chỉ ra, hai tên bạo chúa đối chọi lẫn nhau hòng kiểm soát tâm trí chúng ta là Cái–ấy (Id) và Cái siêu–tôi (Superego), kẻ thứ nhất là người hầu của gen di truyền và kẻ thứ hai là tay sai xu nịnh của xã hội – cả hai đều đại diện cho “Người–khác.” Đối lập với chúng là Cái–tôi (Ego), đại diện cho những nhu cầu chân thật của bản ngã được kết nối với môi trường thực tế của nó.
Ở phương Đông, các phương pháp đạt được khả năng kiểm soát ý thức đã nảy nở và đạt tới những mức độ tinh vi vô cùng. Mặc dù khác nhau ở nhiều khía cạnh, song các môn phái yoga ở Ấn Độ, cách tiếp cận cuộc sống của Đạo giáo được phát triển ở Trung Hoa và các dạng thức Thiền định của Phật giáo đều tìm kiếm sự giải phóng ý thức khỏi các ảnh hưởng tất định của các lực lượng bên ngoài – mang bản chất sinh học hay xã hội. Do vậy, giả dụ, một hành giả yogi sẽ kỷ luật tâm trí mình để phớt lờ đau đớn mà những người bình thường sẽ không có lựa chọn nào ngoài việc để nó len vào nhận thức của mình; tương tự, anh ta có thể bỏ qua đòi hỏi khăng khăng của cơn đói hay cơn hưng phấn tình dục mà hầu hết mọi người đều bất lực trong việc kháng cự lại. Hiệu quả tương tự có thể đạt được theo nhiều cách, thông qua quá trình hoàn thiện một tinh thần kỷ luật triệt để trong Yoga hoặc thông qua việc tu dưỡng không ngừng tính thuận tự nhiên như trong Thiền. Song kết quả hướng đến là giống như nhau: giải phóng đời sống nội tâm khỏi mối đe dọa của sự hỗn loạn và mặt khác, khỏi quy định cứng nhắc của các thôi thúc sinh học và nhờ đó trở nên độc lập khỏi sự kiểm soát xã hội vốn lợi dụng cả hai.
Nhưng nếu thật sự là hàng ngàn năm trước người ta đã biết cần những gì để trở nên tự do và kiểm soát được cuộc sống của chính mình, thì tại sao chúng ta vẫn không tiến triển gì hơn trong hướng đi này? Vì sao chúng ta lại cảm thấy bất lực, thậm chí hơn nhiều so với tổ tiên, trong việc đối mặt với sự hỗn loạn cản trở hạnh phúc? Có ít nhất hai lời giải thích thỏa đáng cho sự thất bại này. Lý giải đầu tiên, loại tri thức – hay sự hiểu biết – mà một người cần đến để giải phóng ý thức lại không tích lũy được. Nó không thể được cô đọng thành một công thức; nó không thể được ghi nhớ và sau đó áp dụng thường xuyên. Giống như các hình thức chuyên môn phức tạp khác, chẳng hạn như một phán quyết chính trị chín chắn hay một cảm quan thẩm mỹ tinh tế, nó phải được tích lũy thông qua kinh nghiệm thử và sai (trial–and–error) của mỗi cá nhân, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Kiểm soát ý thức không đơn giản là một kỹ năng nhận thức. Nó đòi hỏi sự cam kết cả về cảm xúc và ý chí, ít nhất cũng nhiều như trí thông minh đòi hỏi. Không thể có đủ khả năng biết làm việc đó như thế nào; người ta phải bắt tay vào làm, một cách nhất quán, giống như các vận động viên hoặc nhạc sĩ, những người phải tiếp tục duy trì thực hành những gì họ học được từ lý thuyết. Và điều này không bao giờ là dễ dàng. Sự tiến bộ diễn ra tương đối nhanh chóng khi áp dụng kiến thức vào thế giới vật chất, như địa hạt vật lý học hay di truyền học. Nhưng khi kiến thức được áp dụng để sửa đổi thói quen và ham muốn của chúng ta thì lại vô cùng chậm chạp và đau đớn.
Lý giải thứ nhì, kiến thức về cách kiểm soát ý thức phải được cải biến mỗi khi bối cảnh văn hóa thay đổi. Sự thông tuệ của các nhà huyền môn, của người Sufi, của các nhà yogi vĩ đại hoặc của các thiền sư có lẽ đã từng rất xuất sắc trong thời đại của họ – và có lẽ vẫn là xuất sắc nhất, nếu chúng ta sống trong thời đại và nền văn hóa đó của họ. Nhưng khi được cấy ghép vào xã hội California đương đại, những hệ thống ấy đánh mất khá nhiều sức mạnh nguyên thủy của chúng. Chúng chứa đựng các thành tố đặc trưng cho bối cảnh ban đầu của chúng và khi các thành tố phụ này không còn được phân biệt với những thành tố thiết yếu, thì con đường dẫn đến tự do sẽ gặp phải sự phát triển thái quá của thứ cỏ dại mang tên sự sùng bái vô nghĩa. Hình thái nghi thức lôi kéo vật chất và người tìm kiếm bị đẩy trở lại nơi anh ta bắt đầu.
Việc kiểm soát ý thức không thể được thể chế hóa. Ngay khi trở thành một phần của một tập hợp các quy tắc và chuẩn mực xã hội, nó không còn hiệu quả theo cách nó đã định ban đầu. Thật không may, thể chế hóa có xu hướng xảy ra rất nhanh. Freud vẫn còn sống khi cuộc truy tầm của ông về sự giải phóng bản ngã khỏi những kẻ áp bức đã bị biến thành một ý thức hệ hà khắc và một lời tuyên bố đầy quy định cứng nhắc. Marx thậm chí còn kém may mắn hơn: nỗ lực của ông nhằm giải phóng ý thức khỏi sự chuyên chế bóc lột của nền kinh tế đã sớm biến thành một hệ thống đàn áp gây khó khăn hơn nữa cho tâm trí của nhà khởi xướng nghèo khó. Và như Dostoevsky, cũng như nhiều người khác quan sát thấy, nếu Chúa Kitô quay trở lại để rao giảng thông điệp về tự do của ngài trong thời Trung cổ, ngài sẽ bị đóng đinh hết lần này đến lần khác bởi chính những lãnh đạo của các nhà thờ nắm trong tay quyền lực trần gian được dựng nên dưới tên ngài.
Trong mỗi khởi đầu của kỷ nguyên mới – có lẽ mỗi thế hệ, hoặc thậm chí vài năm một lần nếu điều kiện sống của chúng ta thay đổi nhanh chóng – luôn cần thiết phải tư duy lại và tái lập lại những điều cần để thiết lập sự tự quản trong ý thức. Kitô giáo sơ khai đã giúp quần chúng giải phóng mình khỏi sức mạnh của chế độ vua chúa vững như bàn thạch và khỏi một ý thức hệ chỉ có thể mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của những người giàu có và quyền lực. Phong trào Cải cách Kháng nghị đã giải phóng số lượng lớn người dân khỏi sự bóc lột chính trị và tư tưởng bởi Giáo hội La Mã. Các triết gia và sau đó là các chính khách, những người soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ đã chống lại quyền hành được thiết lập bởi các vị vua, các giáo hoàng và giới quý tộc. Khi các quy định phi nhân đạo của các nhà máy trở thành trở ngại rõ ràng nhất với quyền tự do của người lao động trong việc định đoạt các trải nghiệm của riêng họ, bởi họ ở trong nền công nghiệp châu Âu thế kỷ XIX, thì thông điệp của Marx lại trở nên đặc biệt phù hợp. Các biện pháp kiểm soát xã hội tinh vi hơn nhưng cũng không kém phần cưỡng buộc của giới tư sản Vienna đã khiến con đường giải phóng của Freud phù hợp với những người có đầu óc méo mó dưới những điều kiện như vậy. Những hiểu biết của sách Phúc âm, của Martin Luther, của các nhà soạn thảo Hiến pháp, của Marx và Freud – vốn chỉ đề cập đến một vài trong số những nỗ lực đã được thực hiện ở phương Tây nhằm tăng cường hạnh phúc bằng cách tăng cường sự tự do – sẽ luôn có giá trị và hữu ích, mặc dù một vài trong số chúng đã bị sai lệch trong cách thức ứng dụng. Nhưng chúng chắc chắn không bàn luận rốt ráo các vấn đề hoặc các giải pháp.
Nếu nhu cầu định kỳ quay trở lại với câu hỏi trọng tâm là làm thế nào để đạt được sự tự chủ trong cuộc sống của một người, thì hiện trạng của tri thức nói gì về điều đó? Làm cách nào tri thức có thể giúp một người thoát khỏi những lo lắng và sợ hãi và nhờ đó trở nên tự do khỏi những kiểm soát của xã hội, có thể quyết định nhận lấy phần thường hay từ bỏ nó. Như đã đề xuất từ trước, cách thức chính là thông qua sự kiểm soát ý thức, từ đó dẫn đến kiểm soát chất lượng trải nghiệm. Bất kỳ lợi ích nhỏ nào theo định hướng đó cũng sẽ khiến cuộc sống trở nên phong phú hơn, thú vị hơn, ý nghĩa hơn. Trước khi bắt đầu khám phá những cách thức cải thiện chất lượng trải nghiệm, sẽ rất hữu ích khi xem xét ngắn gọn cách thức hoạt động của ý thức và ý nghĩa thực sự của việc có được “những trải nghiệm”. Được trang bị những kiến thức này, người ta có thể dễ dàng đạt được tự do cá nhân hơn.