Flow (Dòng Chảy) - Mihaly Csikszentmihalyi - Chương 10
Không có gì lạ khi những tay quần vợt nổi tiếng luôn cam kết sâu sắc với trò chơi của họ, thưởng thức niềm vui thích khi chơi nhưng lại rời khỏi sân đấu trong tâm trạng ủ rũ và hằn học. Picasso thưởng thức việc vẽ tranh, nhưng ngay khi đặt cọ vẽ xuống, ông biến thành một người đàn ông khá khó chịu. Bobby Fischer, thiên tài cờ vua, dường như luôn bơ vơ lạc lõng ngoại trừ lúc tâm trí của ông đặt vào cờ vua. Những trường hợp này và vô số ví dụ tương tự là một lời nhắc nhở rằng việc đã đạt được trạng thái dòng chảy trong một hoạt động không nhất thiết đảm bảo rằng nó sẽ được lan tỏa sang phần còn lại của cuộc sống.
Nếu chúng ta thưởng thức được công việc và tình bạn, và đối diện được với mọi thử thách như là một cơ hội để phát triển các kỹ năng mới, chúng ta sẽ nhận được những phần thưởng từ cuộc sống vốn nằm ngoài địa hạt cuộc đời bình thường. Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng không đủ để đảm bảo cho chúng ta đạt được trải nghiệm tối ưu. Chừng nào sự thưởng thức theo sau từng hoạt động không được liên kết với nhau theo một cách có ý nghĩa, thì người ta vẫn dễ bị tổn thương bởi tính bất định của sự hỗn loạn. Ngay cả sự nghiệp thành công nhất, mối quan hệ gia đình thắm thiết nhất, cuối cùng cũng trở nên cạn kiệt. Sớm hay muộn, sự dấn thân vào công việc phải bị giảm bớt. Người bạn đời qua đời, con cái lớn lên và rời tổ ấm. Để tiếp cận trải nghiệm tối ưu gần hết mức có thể, bước cuối cùng trong việc kiểm soát ý thức là cần thiết.
Bước này liên quan đến việc biến toàn bộ cuộc sống thành một trải nghiệm dòng chảy thống nhất. Nếu một cá nhân vạch ra kế hoạch đạt được một mục tiêu đủ độ khó, mà từ đó tất cả các mục tiêu khác được định hướng theo sau một cách hợp lý và nếu người đó đầu tư toàn bộ năng lượng để phát triển các kỹ năng nhằm đạt được mục tiêu đó, thì các hành động và cảm xúc sẽ hòa hợp với nhau, các phần riêng biệt của cuộc sống sẽ tương thích với nhau và mỗi hoạt động sẽ có ý nghĩa ở hiện tại, cũng như ở quá khứ và tương lai. Theo cách đó, việc mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của một con người là hoàn toàn khả dĩ.
Nhưng chẳng phải mong đợi cuộc sống có một ý nghĩa tổng thể xuyên suốt là vô cùng ngây thơ sao? Rốt cuộc thì, ít nhất là từ khi Nietzsche kết luận rằng Thượng đế đã chết, các nhà triết học và các nhà khoa học xã hội đã luôn bận rộn chứng minh rằng sự tồn tại là không có mục đích, rằng cơ hội và các nguồn lực phi nhân thống trị số phận của chúng ta và tất cả các giá trị đều tương đối, do đó, mang tính tùy tiện. Đúng là cuộc sống không có ý nghĩa gì, nếu chúng ta muốn nói đến một mục tiêu tối cao được gắn vào kết cấu của tự nhiên và kinh nghiệm của con người, một mục tiêu có hiệu lực với mọi cá nhân. Nhưng không phải vì thế mà cuộc sống không thể có ý nghĩa. Phần lớn những gì chúng ta gọi là văn hóa và văn minh chủ yếu nằm ở những nỗ lực mà mọi người đã thực hiện, thường là để chống lại những nghịch cảnh lớn, nhằm tạo ra ý thức về mục đích cho bản thân và hậu duệ của mình. Nhận ra rằng cuộc sống, tự nó là vô nghĩa, là một chuyện. Chấp nhận chuyện đó với sự cam chịu là chuyện hoàn toàn khác. Thực tế thứ nhất không kéo theo thực tế thứ hai, giống như thực tế chúng ta không có cánh không ngăn được chúng ta bay vậy.
Từ quan điểm của một cá nhân, không quan trọng mục tiêu cuối cùng là gì, miễn là nó đủ hấp dẫn để đầu tư năng lượng tinh thần xứng đáng trọn đời. Thách thức có thể liên quan đến mong muốn có một bộ sưu tập chai bia hoành tráng nhất trong khu phố, quyết tâm tìm ra cách chữa trị ung thư, hoặc đơn giản là đòi hỏi sinh học về việc có những đứa con khỏe mạnh và thành công. Miễn là nó cung cấp các mục tiêu cụ thể, các quy tắc hành động rõ ràng, một phương thức để tập trung và được tham gia, thì bất kỳ mục tiêu nào cũng có thể phục vụ để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của một người.
Trong vài năm gần đây, tôi đã làm quen khá nhiều với các chuyên gia theo Hồi giáo – các kỹ sư điện tử, phi công, doanh nhân và giáo viên, chủ yếu đến từ Ả Rập Saudi và từ các quốc gia Vùng Vịnh khác. Khi trò chuyện với họ, tôi bị ấn tượng bởi sự thoải mái, thong dong mà hầu hết họ có ngay cả khi phải chịu áp lực lớn. Những người được tôi hỏi về việc này đều chia sẻ với tôi cùng một thông điệp, bằng những cách nói khác nhau, rằng: “Điều đó chẳng là gì cả. Chúng tôi không chán nản vì chúng tôi tin rằng cuộc sống của chúng tôi nằm trong tay Thượng đế và bất cứ điều gì Người quyết định sẽ là điều tốt với chúng tôi”. Kiểu niềm tin ngầm như vậy đã từng được phổ biến rộng rãi trong văn hóa của chúng ta, nhưng bây giờ thì không dễ để tìm thấy nó. Nhiều người trong chúng ta phải tự mình khám phá một mục tiêu sẽ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống mà không cần sự giúp đỡ của một đức tin truyền thống.
Ý NGHĨA CÓ NGHĨA LÀ GÌ
Ý nghĩa là một khái niệm khó định nghĩa, vì bất kỳ định nghĩa nào cũng có nguy cơ trở thành một vòng lẩn quẩn. Làm thế nào chúng ta có thể nói về ý nghĩa của ý nghĩa? Có ba cách để giải nén ý nghĩa của từ này, giúp làm sáng tỏ bước cuối cùng để đạt được trải nghiệm tối ưu. Cách sử dụng đầu tiên của nó hướng đến sự kết thúc, mục đích, cái đáng chú trọng của một điều gì đó, như trong câu: Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Hàm ý của từ này phản ánh giả định rằng các sự kiện được liên kết với nhau theo một mục tiêu tối hậu; rằng có một trật tự thời gian, một mối liên hệ nhân quả giữa chúng. Nó giả định rằng các hiện tượng không phải là ngẫu nhiên, mà được chia thành các mô hình dễ nhận biết, được định hướng bởi một mục đích sau cùng. Cách dùng thứ hai của từ này đề cập đến ý định của một cá nhân, như trong câu: Cô ấy thường có ý tốt. Ý nghĩa mà từ ý nghĩa (ý tốt) này ngụ ý chính là mọi người tiết lộ mục đích của họ thông qua hành động; rằng các mục tiêu của họ được thể hiện theo những cách có thể dự đoán, nhất quán và có trật tự. Cuối cùng, ý nghĩa thứ ba mà từ này được sử dụng là để đưa ra thông tin, như khi người ta nói: Ngành tai mũi họng có nghĩa là ngành nghiên cứu về tai, mũi và cổ họng, hoặc: Bầu trời ráng đỏ vào buổi chiều tối có nghĩa là thời tiết tốt vào buổi sáng. Hàm ý của ý nghĩa (nghĩa là) này chỉ ra đặc tính của các từ khác nhau, mối quan hệ giữa các sự kiện và do đó nó giúp làm rõ, thiết lập trật tự giữa các thông tin không liên quan hoặc xung đột.
Tạo ra ý nghĩa, liên quan đến việc mang lại trật tự cho nội dung của tâm trí bằng cách tích hợp các hành động của một cá nhân vào một trải nghiệm dòng chảy thống nhất. Ba ý nghĩa của từ “ý nghĩa” được nêu ở trên làm sáng tỏ cách thức mà việc này có thể hoàn thành. Những người thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa thường có một mục tiêu đủ thách thức để chiếm lấy tất cả năng lượng của họ – một mục tiêu có thể mang lại tính quan trọng cho cuộc đời của họ. Chúng ta có thể coi quá trình này như là tiến trình đạt được một mục đích. Để trải nghiệm dòng chảy, người ta phải đặt mục tiêu cho hành động: chiến thắng một trò chơi, kết bạn với ai đó, hoàn thành một việc theo một cách nhất định. Bản thân mục tiêu thường không quan trọng; điều đáng kể là mục tiêu tập trung sự chú ý của một cá nhân và liên kết nó trong một hoạt động mang tính thưởng thức, có thể thực hiện được. Theo cách thức tương tự, một số người có thể mang sự tập trung rõ rệt tương tự vào năng lượng tinh thần của họ, trong toàn bộ cuộc đời của họ. Các mục tiêu không liên quan của các hoạt động dòng chảy riêng biệt hợp nhất thành một tập hợp đầy đủ các thách thức mang lại mục đích cho mọi thứ mà người đó làm. Có nhiều cách khác nhau để thiết lập tính định hướng này. Napoléon đã cống hiến cả cuộc đời mình, chẳng màng việc dẫn đến cái chết của hàng trăm ngàn binh lính Pháp trong quá trình ấy, chỉ vì mục đích duy nhất là theo đuổi quyền lực. Mẹ Teresa đã đầu tư tất cả sức lực của mình để giúp đỡ những người bất hạnh bơ vơ, bởi vì cuộc đời của bà đã được trao một mục đích bằng một tình yêu vô điều kiện dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa, trong một trật tự tinh thần vượt trên khả năng cảm nhận của bà.
Từ quan điểm tâm lý học thuần túy, Napoléon và Mẹ Teresa, cả hai người có thể đã đạt đến mức độ của mục đích nội tại như nhau và do đó có được trải nghiệm tối ưu. Sự khác biệt rõ ràng giữa hai người gợi ra một câu hỏi đạo đức rộng lớn hơn: Hậu quả của hai cách mang lại ý nghĩa cho cuộc đời này là gì? Chúng ta có thể kết luận rằng Napoléon đã mang lại sự hỗn loạn cho hàng ngàn cuộc đời, trong khi Mẹ Teresa đã giúp giảm bớt entropy trong ý thức của nhiều người. Nhưng ở đây, chúng ta sẽ không thử nói đến sự phán xét dựa trên giá trị khách quan của hành động; thay vào đó chúng ta sẽ quan tâm đến nhiệm vụ khiêm tốn hơn là mô tả trật tự chủ quan mà một mục đích thống nhất mang lại cho ý thức của cá nhân. Theo nghĩa này, câu trả lời cho câu đố cổ xưa “Ý nghĩa của cuộc sống là gì?” hóa ra đơn giản đến mức đáng kinh ngạc. Ý nghĩa của cuộc sống nghĩa là: bất kể làm gì, bất kể đến từ đâu, một mục đích thống nhất là điều sẽ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Ý nghĩa thứ hai của từ ý nghĩa ám chỉ đến sự biểu hiện của ý định. Và ý nghĩa này cũng phù hợp với vấn đề làm thế nào để tạo ra ý nghĩa bằng cách biến toàn bộ cuộc sống thành một hoạt động dòng chảy. Tìm ra một mục đích có thể thống nhất các mục tiêu của một cá nhân là chưa đủ, người ta còn phải đương đầu và vượt qua được những thử thách của nó. Mục đích phải dẫn đến sự cố gắng; ý định phải được chuyển thành hành động. Chúng ta có thể gọi đây là sự quyết tâm trong việc theo đuổi mục tiêu của một người. Điều quan trọng không phải là người ta thực sự đạt được nhiều bao nhiêu những mục tiêu mà mình đặt ra; thay vào đó, điều quan trọng là liệu nỗ lực có được tiêu tốn để đạt được mục tiêu thay vì bị phân tán hoặc lãng phí hay không. Hamlet đã nhận xét, “ngọn lửa của quyết tâm vừa bùng lên đã mờ nhạt ốm yếu đi trước ánh leo lét của ý nghĩ đó, bao dự kiến lớn lao, cao quý cũng phải xoay chiều đổi hướng, chẳng thể biến thành hành động”. Có ít điều đáng buồn hơn là bắt gặp một người biết chính xác những gì anh ta nên làm nhưng lại không thể tập trung đủ năng lượng để làm điều đó. Như Blake đã viết với bút lực quen thuộc của mình, rằng: “Người có khát khao nhưng không hành động sẽ tạo ra dịch bệnh”.
Cách thứ ba và cũng là cách cuối cùng để cuộc sống có được ý nghĩa là kết quả của hai bước trước. Khi một mục tiêu quan trọng được theo đuổi với sự quyết tâm và tất cả các hoạt động đa dạng của một cá nhân phù hợp với nhau thành một trải nghiệm dòng chảy thống nhất, kết quả là sự hài hòa được mang đến cho ý thức. Người nào nhận biết mong muốn của mình và làm việc với mục đích để đạt được chúng thì đó là người có cảm xúc, suy nghĩ và hành động phù hợp với nhau và do đó người đó đã đạt được sự hòa hợp bên trong. Trong những năm 1960, quá trình này được gọi là “hợp nhất tâm trí của bạn”, nhưng hầu như trong mọi giai đoạn lịch sử khác, một khái niệm tương tự đã được sử dụng để mô tả bước cần thiết để sống một cuộc đời tốt đẹp này. Một người giữ được trạng thái hòa hợp bất kể anh ta làm gì, bất kể chuyện gì đang xảy ra với anh, là người biết rằng năng lượng tinh thần của anh ta không lãng phí vì cảm giác nghi ngờ, hối tiếc, tội lỗi và sợ hãi, mà luôn được sử dụng một cách hữu ích. Sự hòa hợp bên trong cuối cùng dẫn đến sức mạnh và sự thanh thản bên trong mà chúng ta vẫn ngưỡng mộ ở những người dường như đã hòa giải được với chính mình.
Mục đích, sự quyết tâm và sự hài hòa giúp thống nhất cuộc đời và mang lại ý nghĩa cho nó bằng cách biến nó thành một trải nghiệm dòng chảy liền mạch. Bất cứ ai đạt được trạng thái này sẽ không bao giờ thật sự thấy thiếu thốn bất cứ điều gì khác. Một người có ý thức là người rất có trật tự bên trong, không cần phải sợ những sự kiện bất ngờ, hay thậm chí là cái chết. Mỗi khoảnh khắc sống sẽ có ý nghĩa và hầu hết đều sẽ mang tính thưởng thức. Vậy, làm thế nào để đạt được điều đó?
TU DƯỠNG MỤC ĐÍCH
Trong cuộc đời của nhiều người, chúng ta có thể tìm thấy một mục đích thống nhất để biện giải cho tất cả những việc họ làm hằng ngày – một mục tiêu giống như một từ trường thu hút năng lượng tinh thần của họ, một mục tiêu mà tất cả các mục tiêu nhỏ hơn đều phụ thuộc vào. Mục tiêu này sẽ xác định những thử thách mà một cá nhân cần phải đối mặt để biến cuộc sống của mình thành một hoạt động dòng chảy. Không có mục tiêu như vậy, ngay cả ý thức có trật tự nhất cũng thiếu vắng ý nghĩa.
Trong suốt lịch sử loài người, vô số nỗ lực đã được thực hiện để khám phá những mục tiêu tối hậu mà sẽ mang lại ý nghĩa cho trải nghiệm. Những nỗ lực này thường rất khác nhau. Chẳng hạn, trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại, theo nhà triết học xã hội Hannah Arendt, đàn ông tìm cách đạt được sự bất tử thông qua các hành động anh hùng, trong khi ở xã hội Kitô giáo, con người nói chung hy vọng đạt được sự sống vĩnh cửu thông qua những việc làm thánh thiện. Theo ý kiến của Arendt, mục tiêu tối hậu phải dàn xếp được vấn đề cái chết: chúng phải đem đến cho con người một mục tiêu mở rộng sau cái chết. Cả sự bất tử và sự vĩnh cửu đều đạt đến điều này, nhưng theo những cách rất khác nhau. Các anh hùng Hy Lạp đã thực hiện những hành động cao thượng để thu hút sự ngưỡng mộ từ đồng bào của họ, hy vọng rằng những hành động dũng cảm mang tính cá nhân cao của họ sẽ được truyền lại trong các bài hát và những câu chuyện truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Danh tính của họ, nhờ đó, sẽ tiếp tục tồn tại trong ký ức của các thế hệ hậu duệ. Trái lại, các vị thánh đã từ bỏ tính cá nhân để hợp nhất suy nghĩ và hành động của họ với ý muốn của Thiên Chúa, mong muốn được sống mãi mãi sau khi hợp nhất với Ngài. Người anh hùng và bậc thánh nhân, cống hiến toàn bộ năng lượng tinh thần của họ cho một mục tiêu bao gồm tất cả những điều khác, vốn quy định một mô hình cố kết của hành vi để tuân theo cho đến khi chết, biến cuộc đời của họ thành những trải nghiệm dòng chảy thống nhất. Các thành viên khác trong xã hội đã thiết lập các hành động ít xuất chúng hơn của họ dựa trên các mô hình xuất chúng này, cung cấp một ý nghĩa ít rõ ràng, nhưng ít nhiều tương xứng với cuộc đời của chính họ.
Mỗi nền văn hóa của con người, bằng định nghĩa, có chứa các hệ thống ý nghĩa có thể phục vụ như là mục đích hoàn thiện mà nhờ đó các cá nhân có thể đặt ra các mục tiêu của họ. Chẳng hạn, Pitrim Sorokin đã chia các kỷ nguyên khác nhau của nền văn minh phương Tây thành ba kiểu mà ông tin rằng đã tồn tại xen kẽ với nhau trong hơn hai mươi lăm thế kỷ, đôi khi kéo dài hàng trăm năm, đôi khi chỉ vài thập kỷ. Ông gọi đây là những giai đoạn cảm giác (sensate), giai đoạn tư tưởng (ideational) và giai đoạn lý tưởng (idealistic) của văn hóa và ông đã cố gắng chứng minh rằng trong mỗi giai đoạn có tập hợp ưu tiên khác nhau để biện giải cho mục tiêu của sự tồn tại.
Các nền văn hóa cảm giác được tập hợp xung quanh quan điểm cho rằng thực tại được thiết kế để đáp ứng các giác quan. Chúng có xu hướng hưởng lạc, vị lợi, quan tâm chủ yếu đến các nhu cầu cụ thể. Trong các nền văn hóa như vậy, nghệ thuật, tôn giáo, triết học và hành vi hằng ngày đều tôn vinh và biện minh cho các mục tiêu về mặt trải nghiệm hữu hình. Theo Sorokin, văn hóa cảm giác chiếm ưu thế ở châu Âu từ khoảng năm 440 đến khoảng năm 200 trước Công nguyên, với đỉnh cao từ năm 420 đến năm 400 trước Công nguyên; nó đã lại chiếm ưu thế một lần nữa trong thế kỷ vừa qua, ít nhất là trong các nền dân chủ tư bản cấp tiến. Con người ở trong một nền văn hóa cảm giác không nhất thiết là trọng vật chất hơn, nhưng họ tổ chức các mục tiêu và biện minh cho hành vi của mình với tham chiếu chủ yếu là niềm khoái lạc và tính thực tiễn hơn là các nguyên tắc trừu tượng. Những thách thức họ nhận thấy hầu như chỉ liên quan đến việc làm cho cuộc sống dễ dàng hơn, thoải mái hơn và dễ chịu hơn. Họ có xu hướng xác định một điều là tốt đẹp qua những gì họ cảm thấy là tốt đẹp và không tin tưởng vào các giá trị lý tưởng hóa.
Các nền văn hóa tư tưởng được tổ chức theo một nguyên tắc trái ngược với văn hóa cảm giác: họ xem nhẹ những thứ hữu hình và phấn đấu cho những kết quả phi vật chất, siêu nhiên. Họ nhấn mạnh các nguyên tắc trừu tượng, khổ hạnh và siêu việt của các mối quan tâm vật chất. Nghệ thuật, tôn giáo, triết học và sự lý giải của hành vi hằng ngày có xu hướng phụ thuộc vào sự nhận thức rõ về trật tự tinh thần này. Mọi người hướng sự chú ý đến tôn giáo hoặc ý thức hệ và nhìn nhận những thách thức của họ không nằm ở khía cạnh làm cho cuộc sống dễ dàng hơn, mà là đạt được sự sáng tỏ nội tâm và niềm tin bên trong. Theo Sorokin, Hy Lạp từ năm 600 đến năm 500 trước Công nguyên và Tây Âu từ năm 200 trước Công nguyên đến năm 400 Công nguyên là những đỉnh cao của thế giới quan này. Những ví dụ gần hơn và đáng lo ngại hơn có thể bao gồm sự can thiệp của Đảng Quốc xã ở Đức, chế độ cộng sản ở Nga, Trung Quốc và sự hồi sinh của Hồi giáo ở Iran.
Một ví dụ đơn giản có thể minh họa sự khác biệt giữa các nền văn hóa được tổ chức xung quanh các nguyên tắc cảm giác và tư tưởng. Trong xã hội của chúng ta cũng như trong xã hội phát xít, thể chất hoàn hảo được trân trọng và vẻ đẹp của cơ thể con người được tôn thờ. Nhưng lý do cho điều đó là rất khác nhau. Trong nền văn hóa cảm giác của chúng ta, cơ thể được nuôi dưỡng để đạt được sức khỏe và niềm khoái lạc. Trong một nền văn hóa tư tưởng, cơ thể được đánh giá chủ yếu như một biểu tượng của một số nguyên tắc trừu tượng về sự hoàn hảo siêu hình liên quan đến ý tưởng về “chủng tộc Aryan thượng đẳng”, hay “người La Mã can trường”. Trong một nền văn hóa cảm giác, một tấm áp phích của một thanh niên đẹp đẽ có thể tạo ra một phản ứng giới tính sẽ được sử dụng cho mục đích thương mại. Trong một nền văn hóa tư tưởng, cùng một áp phích đó sẽ đưa ra một tuyên bố ý thức hệ và được sử dụng cho mục đích chính trị.
Tất nhiên, không có thời điểm nào mà có bất kỳ nhóm người nào định hình mục đích của họ thông qua chỉ một trong hai cách thiết lập trải nghiệm này và loại trừ cách còn lại. Tại bất kỳ thời điểm nào, các cách thức khác nhau và sự kết hợp khác nhau của thế giới quan cảm giác và thế giới quan tư tưởng có thể cùng tồn tại trong cùng một nền văn hóa và thậm chí trong ý thức của cùng một cá nhân. Ví dụ, cái gọi là phong cách sống yuppie chủ yếu dựa trên các nguyên tắc cảm giác, trong khi chủ nghĩa cơ yếu của Vành đai Kinh thánh dựa trên các tiền đề tư tưởng. Hai hình thức này, trong nhiều biến thể của chúng, cùng tồn tại chẳng mấy hòa thuận trong hệ thống xã hội hiện tại của chúng ta. Và cái nào trong số chúng, hoạt động như một hệ thống các mục tiêu, cũng có thể giúp tổ chức cuộc sống thành một hoạt động dòng chảy mạch lạc.
Không chỉ các nền văn hóa mà các cá nhân cũng thể hiện các hệ thống ý nghĩa này trong hành vi của họ. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp như Lee Iacocca hay H. Ross Perot, những người có cuộc sống được xếp đặt bởi những thách thức kinh doanh cụ thể, thường để lộ những đặc tính tốt nhất của phương pháp tiếp cận cuộc sống mang tính cảm giác. Các khía cạnh nguyên thủy hơn của thế giới quan cảm giác được đại diện bởi người như Hugh Hefner, người có “triết lý playboy” tán dương việc theo đuổi niềm khoái lạc đơn thuần. Đại diện của một kiểu tiếp cận mang tính tư tưởng thiếu suy xét bao gồm những nhà tư tưởng và nhà huyền môn ủng hộ các giải pháp siêu việt đơn giản, chẳng hạn như niềm tin mù quáng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Tất nhiên, có nhiều hoán vị và sự kết hợp khác nhau: các nhà làm truyền hình như Bakkers hay Jimmy Swaggart công khai khuyến khích khán giả của họ coi trọng các mục tiêu tư tưởng, trong khi đời sống riêng tư của họ thì lại theo đuổi sự xa hoa và thú nhục dục.
Đôi khi, một nền văn hóa thành công trong việc tích hợp hai nguyên tắc đối lập biện chứng này thành một tổng thể thuyết phục, bảo tồn những lợi thế của cả hai, đồng thời vô hiệu hóa những nhược điểm của mỗi nguyên tắc. Sorokin gọi những nền văn hóa này là chủ nghĩa “lý tưởng”. Nền văn hóa này kết hợp sự chấp nhận trải nghiệm cảm giác cụ thể cùng sự sùng kính đối với mục đích tâm linh. Tây Âu cuối thời Trung cổ và thời Phục hưng được Sorokin xếp vào loại tương đối lý tưởng nhất, với đỉnh cao nhất đạt được trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XIV. Không cần phải nói, giải pháp mang tính lý tưởng dường như là giải pháp thích đáng nhất, vì nó tránh được sự thờ ơ vốn thường là chủ đề chính của các thế giới quan duy vật thuần túy và chủ nghĩa khổ hạnh cuồng tín đã làm điêu đứng nhiều hệ thống tư tưởng.
Phép chia ba đơn giản của Sorokin là một phương pháp phân loại văn hóa gây tranh cãi, nhưng nó rất hữu ích trong việc minh họa một số nguyên tắc mà người ta đặt ra các mục tiêu tối hậu cho cuộc đời họ. Tùy chọn cảm giác luôn khá phổ biến. Nó bao hàm việc phản ứng với những thử thách cụ thể và định hình cuộc sống của một cá nhân dựa trên các hoạt động dòng chảy có xu hướng đem lại cái kết bằng vật chất. Một trong những ưu điểm của nó là thực tế những quy tắc của nó được thấu hiểu bởi tất cả mọi người và rằng phản hồi của nó có xu hướng rõ ràng – tính đáng khát khao của sức khỏe, tiền bạc, quyền lực và sự thỏa mãn tình dục đều hiếm khi gây tranh cãi. Nhưng tùy chọn tư tưởng cũng có những ưu điểm của nó: mục tiêu siêu hình có thể không bao giờ đạt được, nhưng theo đó, thất bại gần như cũng là không thể chứng minh: người tin tưởng thực sự luôn có thể bóp méo phản hồi để sử dụng nó như một bằng chứng rằng anh ta đã đúng, rằng anh ta là một trong những người được chọn. Có lẽ cách thỏa mãn nhất để thống nhất cuộc đời thành một hoạt động dòng chảy toàn diện là thông qua loại hình lý tưởng. Nhưng đặt ra những thách thức bao hàm cả việc cải thiện các điều kiện vật chất đồng thời theo đuổi mục đích tâm linh là không dễ dàng, đặc biệt là khi văn hóa nói chung chủ yếu là trọng cảm giác.
Một cách khác để mô tả cách các cá nhân tổ chức hành động của họ là tập trung vào sự phức tạp của những thách thức mà họ đặt ra cho bản thân hơn là vào nội dung của chúng. Có lẽ điều quan trọng nhất không phải là liệu người ta theo chủ nghĩa cảm giác hay tư tưởng, mà là việc những mục tiêu mà người đó theo đuổi trong những lĩnh vực đó biệt hóa và tích hợp ra sao. Như đã thảo luận trong phần cuối của chương hai, độ phức tạp phụ thuộc vào việc một hệ thống phát triển các đặc điểm và tiềm năng độc đáo của nó như thế nào và vào việc các đặc điểm này liên kết với nhau chặt chẽ ra sao. Xét trên phương diện đó, một cách tiếp cận cuộc sống chú trọng cảm giác, sẵn sàng đáp lại nhiều trải nghiệm cụ thể của con người và nhất quán trong nội tâm, sẽ thích đáng hơn một chủ nghĩa tư tưởng mù quáng và ngược lại.
Có một sự đồng thuận giữa các nhà tâm lý học đã nghiên cứu những chủ đề như vậy, rằng mọi người phát triển khái niệm về con người họ và những gì họ muốn đạt được trong cuộc sống theo một chuỗi các bước. Mỗi cá nhân bắt đầu với một nhu cầu giữ gìn bản thân, giữ cho cơ thể và các mục tiêu cơ bản của nó không bị tan rã. Tại thời điểm này, ý nghĩa của cuộc sống là đơn giản; nó tương đương với sự sống còn, cảm giác thoải mái và niềm khoái lạc. Khi sự an toàn của con người vật chất không còn là điều nghi ngại nữa, người đó có thể mở rộng chân trời hệ thống ý nghĩa của mình để nắm lấy các giá trị của một cộng đồng – gia đình, khu dân cư, một nhóm tôn giáo hoặc dân tộc. Bước này dẫn đến sự phức tạp hơn cho cái tôi, mặc dù nó thường bao hàm sự tuân thủ các nguyên tắc và quy chuẩn của tập quán. Bước tiếp theo trong phát triển liên quan đến chủ nghĩa cá nhân phản tỉnh. Người ta lần nữa quay vào bên trong, tìm căn cứ mới cho quyền lực và giá trị bên trong bản thân. Người này không còn tuân phục một cách mù quáng, mà phát triển một lương tâm tự chủ. Tại giai đoạn này, mục tiêu chính trong cuộc sống trở thành mong muốn phát triển, cải thiện, hiện thực hóa tiềm năng bản thân. Bước thứ tư, dựa trên tất cả những bước trước đó, là bước từ bỏ bản ngã cuối cùng, quay trở lại sự hòa nhập với người khác và với các giá trị phổ quát. Trong giai đoạn cuối cùng này, những người cực kỳ cá tính – giống như Siddhartha để cho dòng sông kiểm soát chiếc thuyền của mình – cũng sẵn sàng hợp nhất sự quan tâm của anh ta với cộng đồng to lớn hơn.
Trong kịch bản này, việc xây dựng một hệ thống ý nghĩa phức tạp dường như bao hàm việc tập trung sự chú ý xen kẽ vào bản thân và vào người khác. Đầu tiên, năng lượng tinh thần được đầu tư vào nhu cầu sinh lý và trật tự tinh thần tương đương với niềm khoái lạc. Khi mức độ này tạm thời đạt được và người đó có thể bắt đầu chú ý vào các mục tiêu của cộng đồng, khi đó điều gì có ý nghĩa tương ứng với các giá trị nhóm – tôn giáo, lòng yêu nước, và sự chấp nhận cùng sự tôn trọng của người khác cung cấp các tham số cho trật tự bên trong. Giai đoạn tiếp theo của phép biện chứng đưa sự chú ý trở lại với bản thân: có được cảm giác thuộc về một hệ thống con người lớn hơn, giờ đây người ta cảm thấy thách thức nằm ở chỗ làm sáng tỏ giới hạn của tiềm năng cá nhân. Điều này dẫn đến những nỗ lực hiện thực hóa lý tưởng của bản thân, thử nghiệm các kỹ năng khác nhau, những ý tưởng và sự kỷ luật khác nhau. Ở giai đoạn này, sự thưởng thức, thay vì niềm khoái lạc, trở thành nguồn phần thưởng chính. Nhưng bởi vì giai đoạn này bao hàm việc trở thành người tìm kiếm, người đó cũng có thể gặp phải một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên, thay đổi nghề nghiệp và sự gia tăng một cách tuyệt vọng cảm giác mệt mỏi trong việc phá vỡ những giới hạn của năng lực cá nhân. Từ thời điểm này, người ta đã sẵn sàng cho sự thay đổi cuối cùng trong việc chuyển hướng năng lượng: đã khám phá ra những gì mình có thể và, quan trọng hơn là không thể, làm một mình, mục tiêu cuối cùng hợp nhất với một hệ thống lớn hơn bản thân họ – một nguyên nhân, một ý tưởng, một thực thể siêu việt.
Không phải ai cũng chuyển dịch qua các giai đoạn của vòng xoáy tăng dần sự phức tạp này. Một số người không bao giờ có cơ hội vượt qua bước đầu tiên. Khi nhu cầu sinh tồn cứ trở đi trở lại nhiều đến mức người ta không thể dành nhiều sự quan tâm cho bất cứ điều gì khác, người đó sẽ không còn đủ năng lượng tinh thần để đầu tư vào các mục tiêu của gia đình hoặc của cộng đồng rộng lớn hơn. Chỉ mỗi sự tư lợi sẽ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Phần lớn mọi người hầu như chắc chắn được đảm bảo thoải mái trong giai đoạn phát triển thứ hai, trong đó phúc lợi của gia đình, hoặc công ty, cộng đồng hoặc quốc gia là nguồn gốc của ý nghĩa. Số ít hơn đạt đến cấp độ thứ ba của chủ nghĩa phản tỉnh cá nhân và chỉ một số rất ít nổi lên lần nữa để tiến lên sự thống nhất với các giá trị phổ quát. Vì vậy, các giai đoạn này không nhất thiết phản ánh những gì xảy ra, hoặc những gì sẽ xảy ra; chúng mô tả những gì có thể xảy ra nếu một người may mắn và thành công trong việc kiểm soát ý thức.
Bốn giai đoạn được nêu ở trên là mô hình đơn giản nhất để mô tả sự xuất hiện của ý nghĩa theo cùng mức độ của sự phức tạp; có những mô hình khác chi tiết hóa đến sáu hoặc thậm chí tám giai đoạn. Số lượng các bước là không quan trọng; điều đáng quan tâm là hầu hết các lý thuyết đều nhận ra tầm quan trọng của sự căng thẳng mang tính biện chứng này, sự xen kẽ này giữa một bên là sự biệt hóa và một bên là sự tích hợp này. Từ quan điểm này, cuộc sống cá nhân dường như bao gồm một loạt các “trò chơi” khác nhau, với các mục tiêu và thử thách khác nhau mà sẽ thay đổi theo thời gian khi cá nhân đó trưởng thành. Sự phức tạp đòi hỏi chúng ta đầu tư năng lượng để phát triển bất kỳ kỹ năng bẩm sinh nào ta có, để trở nên tự chủ, tự lực, ý thức về sự độc đáo của riêng chúng ta và về những hạn chế của nó. Đồng thời chúng ta phải đầu tư năng lượng vào việc nhận biết, hiểu và tìm cách thích nghi với các lực lượng vượt ra ngoài ranh giới của cá nhân mình. Tất nhiên chúng ta không bắt buộc phải thực hiện bất kỳ kế hoạch nào trong số này. Nhưng nếu chúng ta không làm vậy, có khả năng là sớm hay muộn gì chúng ta cũng sẽ thấy hối tiếc.
RÈN LUYỆN SỰ QUYẾT TÂM
Mục đích đưa ra định hướng cho những nỗ lực của một cá nhân, nhưng nó không nhất thiết giúp cho cuộc sống dễ dàng hơn. Các mục tiêu có thể dẫn đến mọi kiểu rắc rối và lúc đó người ta sẽ bị thúc giục từ bỏ mục tiêu và tìm một số kịch bản ít đòi hỏi hơn để chỉ đạo cho hành động của mình. Cái giá mà người ta phải trả cho việc thay đổi mục tiêu bất cứ khi nào bị nghịch cảnh đe dọa là dù họ có thể đạt được một cuộc sống dễ chịu và thoải mái hơn, thì gần như chắc chắn cuộc đời sẽ kết thúc trong sự trống rỗng và vô nghĩa.
Những người Pilgrim đầu tiên định cư ở đất nước này đã quyết định rằng tự do thờ phụng theo lương tâm của họ là cần thiết để duy trì sự toàn vẹn của bản thân. Họ tin rằng không có gì quan trọng hơn việc duy trì sự kiểm soát mối quan hệ của họ với Đấng tối cao. Niềm tin của họ không phải là một lựa chọn mới lạ về một mục tiêu tối hậu, một mục tiêu có thể chỉ đạo cuộc sống của con người, nhiều người khác đã làm như vậy trước đây. Điều làm nên sự khác biệt của những người Pilgrim – giống như người Do Thái ở pháo đài Masada, những người Kitô tử vì đạo, những người theo phái Cathar ở miền nam nước Pháp vào cuối thời Trung cổ, những người đã chọn cách tương tự – là họ không cho phép sự đàn áp và những khó khăn làm giảm quyết tâm của họ. Thay vào đó, họ tuân theo logic niềm tin của mình bất kể niềm tin ấy dẫn đến đâu, họ hành động như thể giá trị của những niềm tin đó đáng để từ bỏ sự thoải mái và thậm chí là từ bỏ chính cuộc sống. Và bởi vì họ đã hành động như vậy, mục tiêu của họ thực tế trở nên đáng giá bất kể ban đầu chúng có giá trị hay không. Bởi vì mục tiêu đã trở nên có giá trị thông qua sự cam kết, chúng đã giúp mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của những người Pilgrim.
Không có mục tiêu nào có thể có nhiều tác động trừ khi nó được thực hiện nghiêm túc. Mỗi mục tiêu chỉ định sẵn một tập hợp các hậu quả và nếu người ta không chuẩn bị để xử lý chúng, mục tiêu sẽ trở nên vô nghĩa. Người leo núi quyết định leo lên một đỉnh núi hiểm trở biết rằng anh sẽ kiệt sức và gặp nguy hiểm trong hầu hết hành trình. Nhưng nếu anh từ bỏ quá dễ dàng, cuộc chinh phục của anh sẽ bị xem là ít giá trị. Điều tương tự cũng đúng với tất cả các trải nghiệm dòng chảy: có một mối quan hệ tác động qua lại giữa các mục tiêu và nỗ lực mà nó đòi hỏi. Mục tiêu biện minh cho nỗ lực mà nó đòi hỏi ngay từ đầu, nhưng sau đó, chính nỗ lực lại biện minh cho mục tiêu. Người ta quyết định kết hôn vì người phối ngẫu có vẻ xứng đáng để chia sẻ cuộc sống, nhưng trừ khi người đó cư xử như thể điều này là sự thật, bằng không mối quan hệ chung thân sẽ mất giá trị theo thời gian.
Với tất cả những điều đã được xem xét, không thể nói rằng loài người đã thiếu can đảm ủng hộ các quyết tâm của mình. Hàng tỉ bậc phụ huynh, trong mọi thời đại và trong mọi nền văn hóa, đã hy sinh bản thân mình vì con cái và từ đó làm cho cuộc đời có ý nghĩa hơn đối với bản thân họ. Chắc hẳn cũng có nhiều người đã dành tất cả năng lượng của họ để bảo vệ những cánh đồng và bầy gia súc của mình. Hàng triệu người đã đánh đổi tất cả vì lợi ích của tôn giáo, của đất nước hoặc nghệ thuật của họ. Với những người đã làm như vậy một cách kiên định, bất chấp đau đớn và thất bại, toàn bộ cuộc đời có cơ hội trở thành một dòng chảy kéo dài: một tập hợp kinh nghiệm tập trung, mạch lạc, theo trật tự logic, mà nhờ trật tự bên trong của nó, có thể cảm giác được đầy ý nghĩa và mang tính thưởng thức.
Nhưng khi sự phức tạp của văn hóa tiến hóa, việc đạt được mức độ quyết tâm tuyệt đối này trở nên khó khăn hơn. Đơn giản là có quá nhiều mục tiêu cạnh tranh giành sự chú ý đặc biệt và ai mà nói được đâu là mục tiêu xứng đáng với sự cống hiến cả cuộc đời chứ? Chỉ vài thập kỷ trước, một người phụ nữ vẫn cảm thấy đặt phúc lợi của gia đình làm mục tiêu tối hậu của mình là điều hoàn toàn chính đáng. Một phần, điều này là do thực tế cô không có nhiều lựa chọn khác. Ngày nay, bởi cô có thể là một doanh nhân, một học giả, một nghệ sĩ hay thậm chí là một người lính, nên việc làm vợ và làm mẹ nên là ưu tiên hàng đầu của phụ nữ không còn là điều hiển nhiên nữa. Sự hoang mang tương tự mà sự giàu có đem lại cũng tác động đến tất cả chúng ta. Tính di động đã giải phóng chúng ta khỏi sự trói buộc với nơi sinh chốn đẻ của mình: không còn lý do nào để dồn tâm dốc sức vào cộng đồng bản địa, để đồng nhất với nơi chôn nhau cắt rốn của mình nữa. Nếu “cỏ trông xanh hơn phía bên kia hàng rào”, chúng ta chỉ cần di chuyển sang lãnh địa khác – “nghĩ sao về việc mở nhà hàng nhỏ ở Úc?”. Phong cách sống và tôn giáo là những lựa chọn dễ dàng chuyển đổi. Trong quá khứ, một thợ săn là một thợ săn cho đến cuối đời, một thợ rèn thì dành cả đời để hoàn thiện tay nghề của mình. Bây giờ chúng ta có thể rũ bỏ bản sắc nghề nghiệp của mình theo ý muốn: không ai buộc phải là một viên kế toán mãi mãi.
Sự phong phú của các lựa chọn mà chúng ta đối diện ngày nay đã mở rộng tự do cá nhân đến một mức độ mà một trăm năm trước thôi là điều không thể tưởng tượng được. Nhưng hậu quả tất yếu của những lựa chọn hấp dẫn là tính bất định của mục đích; tính bất định lần lượt phá hủy quyết tâm, và sự thiếu quyết tâm dẫn đến kết cục mất giá trị của lựa chọn. Do đó, trái với kỳ vọng, tự do không nhất thiết giúp phát triển ý nghĩa trong cuộc sống. Nếu các quy tắc của trò chơi trở nên quá linh hoạt, sự tập trung sẽ sụp đổ và việc đạt được trải nghiệm dòng chảy sẽ khó khăn hơn. Cam kết với một mục tiêu và các quy tắc mà nó đòi hỏi dễ dàng hơn nhiều khi các lựa chọn là số ít và rõ ràng.
Điều này không có nghĩa là sự trở lại với các giá trị cứng nhắc và các lựa chọn hạn chế trong quá khứ sẽ được ưu tiên hơn, ngay cả khi đó là một khả năng – mà thực tế không có khả năng đó. Sự phức tạp và tự do thúc đẩy chúng ta, thứ tổ tiên của chúng ta đã chiến đấu rất khó khăn để đạt được, là một thách thức mà chúng ta phải tìm cách làm chủ. Nếu làm được như vậy, cuộc sống của con cháu chúng ta sẽ phong phú hơn vô cùng so với bất kỳ điều gì đã từng trải trên hành tinh này trước đây. Nếu không làm vậy, chúng ta sẽ có nguy cơ phung phí năng lượng của mình vào những mục tiêu mâu thuẫn, vô nghĩa.
Nhưng trong quá trình đó, làm thế nào để chúng ta biết đầu tư năng lượng tinh thần của mình vào đâu? Không có ai ở ngoài kia có thể nói với chúng ta rằng “Đây là một mục tiêu xứng đáng để bạn dành cả cuộc đời”. Vì không có gì chắc chắn tuyệt đối để hướng đến, mỗi người phải tự mình khám phá mục đích tối hậu. Thông qua thử nghiệm và sai sót, thông qua sự tôi luyện cường độ cao, chúng ta có thể tháo gỡ sự rối rắm của các mục tiêu mâu thuẫn và lựa chọn mục tiêu đưa ra được mục đích hành động.
Tự biết mình – một phương thuốc cổ xưa đến nỗi giá trị của nó dễ bị lãng quên – là quá trình mà thông qua đó người ta có thể tổ chức các tùy chọn xung đột. “Tự biết mình” đã được chạm khắc trên lối vào ngôi đền tiên tri Delphi và kể từ đó có vô số các lời thơ sùng tín đã ca ngợi hiệu quả của nó. Lý do lời khuyên này được lặp lại quá thường xuyên như vậy là vì nó thật sự hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cần tái khám phá mọi sự phát sinh trong ý nghĩa của những từ này và đâu là lời khuyên thật sự mà nó ngụ ý với mỗi cá nhân. Và để làm điều đó, sẽ thật hữu ích nếu diễn đạt nó theo kiến thức ngày nay và hình dung ra một phương pháp hiện đại cho sự ứng dụng của nó.
Xung đột nội tâm là kết quả của sự cạnh tranh đòi hỏi sự chú ý. Quá nhiều ham muốn, quá nhiều mục tiêu không tương thích đấu tranh để giành giật năng lượng tinh thần về phía chúng. Theo đó, cách duy nhất để giảm xung đột là lọc ra những đòi hỏi thiết yếu, loại ra những đòi hỏi không phù hợp và thiết lập thứ tự ưu tiên của những gì được giữ lại. Về cơ bản có hai cách để thực hiện điều này: một là những gì người xưa gọi là vita activa, một cuộc sống hành động và hai là vita contemplativa, hay con đường của sự phản tỉnh.
Được đắm chìm trong vita activa, người ta sẽ đạt được trạng thái dòng chảy thông qua sự tham gia hoàn toàn vào các thử thách cụ thể bên ngoài. Nhiều nhà lãnh đạo vĩ đại như Winston Churchill hay Andrew Carnegie đã đặt ra cho bản thân những mục tiêu trọn đời mà họ sẵn sàng theo đuổi với quyết tâm cao độ mà không có bất kỳ cuộc đấu tranh nội tâm hay sự hoài nghi nào về thứ tự ưu tiên. Các nhà điều hành thành công, các chuyên gia giàu kinh nghiệm và các nghệ nhân tài năng, học cách tin tưởng vào khả năng phán đoán và năng lực của họ để một lần nữa bắt đầu hành động với sự tự phát vô thức của đứa trẻ. Nếu đấu trường hành động đủ thách thức, người ta có thể trải nghiệm dòng chảy liên tục trong nghề nghiệp của mình, do đó, để lại không gian tối thiểu cho việc để ý đến những entropy trong cuộc sống bình thường. Theo cách này, sự hài hòa của ý thức được khôi phục lại một cách gián tiếp, không phải bằng cách đối mặt với mâu thuẫn, cố gắng giải quyết các mục tiêu và mong muốn mâu thuẫn, mà bằng cách theo đuổi các mục tiêu đã chọn với cường độ cao đến mức mọi sự cạnh tranh tiềm năng đều bị khuất phục.
Hành động giúp tạo ra trật tự bên trong, nhưng nó có nhược điểm của mình. Một người đã cống hiến quyết liệt để đạt được một kết quả thực dụng có thể loại bỏ sự xung đột nội tại, nhưng thường trả giá bằng sự hạn chế quá mức các lựa chọn. Một kỹ sư trẻ, người có mục tiêu trở thành quản lý nhà máy ở tuổi bốn mươi lăm và dồn tất cả năng lượng của mình cho kết quả đó có thể trải qua vài năm thành công và không có quãng ngừng nào. Tuy nhiên, sớm hay muộn, các lựa chọn thay thế vốn bị đình hoãn có thể xuất hiện trở lại dưới dạng những hoài nghi và sự hối tiếc không thể chịu đựng được: “Có đáng để hy sinh tất cả sức khỏe của tôi cho việc thăng chức không? Điều gì đã xảy ra với những đứa trẻ đáng yêu của tôi, những đứa trẻ mà đã đột nhiên biến thành những thanh thiếu niên ủ rũ? Bây giờ tôi đã đạt được quyền lực và sự an toàn tài chính, vậy tôi phải làm gì với nó đây?”. Nói cách khác, các mục tiêu đã duy trì hành động trong một khoảng thời gian hóa ra không có đủ sức mạnh để mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc đời.
Đây là chỗ mà lợi thế được cho là của một cuộc đời nhiều chiêm nghiệm xuất hiện. Suy ngẫm không thiên kiến dựa trên kinh nghiệm, cân nhắc bằng óc thực tế về các lựa chọn và hậu quả của chúng, từ lâu đã được coi là phương pháp hiệu quả nhất cho một cuộc sống tốt đẹp. Cho dù nó được diễn ra trên “chiếc trường kỷ của những nhà tâm lý học”, nơi những ham muốn bị kìm nén được tái hòa nhập với phần còn lại của ý thức, hay liệu nó được thực hiện một cách có phương pháp như thử thách lương tâm của những tu sĩ Dòng Tên, bao gồm xem xét hành động của một cá nhân một hoặc nhiều lần mỗi ngày để kiểm tra xem liệu những gì người này đã làm trong vài giờ qua có phù hợp với các mục tiêu dài hạn hay không, thì việc tự biết mình có thể được theo đuổi theo vô số cách, mỗi cách có khả năng dẫn đến sự hòa hợp bên trong lớn hơn.
Hành động và sự phản tỉnh, một cách lý tưởng, nên bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Hành động tự nó là mù quáng, còn phản tỉnh thì vô lực. Trước khi đầu tư một lượng lớn năng lượng vào một mục tiêu, cần đưa ra các câu hỏi cơ bản: Đây có phải là điều tôi thực sự muốn làm không? Nó có phải là một điều gì đó tôi có thể tận hưởng khi làm? Tôi có khả năng thưởng thức nó trong tương lai gần không? Cái giá mà tôi và những người khác có thể phải trả có đáng không? Tôi sẽ có thể chấp nhận bản thân nếu tôi hoàn thành nó không?
Những câu hỏi có vẻ dễ dàng này gần như là không thể trả lời với một người đã mất sự liên lạc, kết nối với trải nghiệm của chính mình. Nếu một người không bận tâm tìm hiểu những gì anh ta muốn, nếu sự chú ý của anh bị cuốn vào những mục tiêu bên ngoài đến nỗi anh không nhận thấy cảm xúc của chính mình, thì anh không thể lên kế hoạch hành động một cách có ý nghĩa. Mặt khác, nếu thói quen suy tư được phát triển tốt, người ta không cần phải trải qua nhiều cuộc tìm kiếm tâm hồn để quyết định liệu một lộ trình hành động có phải mang tính entropy hay không. Anh ta sẽ biết, gần như bằng trực giác, rằng sự thăng tiến này sẽ tạo ra nhiều căng thẳng hơn giá trị của nó, hoặc tình bạn đặc biệt này, quá lôi cuốn như vậy, sẽ dẫn đến những căng thẳng không thể chấp nhận được trong bối cảnh hôn nhân.
Mang lại trật tự cho tâm trí trong những khoảng thời gian ngắn là tương đối dễ dàng; bất kỳ mục tiêu thực tế nào cũng có thể làm được điều này. Một trò chơi hay, một trường hợp khẩn cấp trong công việc, hoặc một quãng vui vẻ ở nhà sẽ tập trung sự chú ý và tạo ra trải nghiệm hài hòa của dòng chảy. Nhưng để kéo dài trạng thái này trong suốt cuộc đời là khó hơn nhiều. Bởi việc này cần thiết đầu tư năng lượng vào các mục tiêu có sức thuyết phục đến mức chúng biện minh cho nỗ lực ngay cả khi tài nguyên của chúng ta cạn kiệt và khi số phận tàn nhẫn từ chối cho chúng ta cơ hội có một cuộc đời dễ chịu. Nếu các mục tiêu được lựa chọn tốt và nếu chúng ta có can đảm tuân theo chúng bất chấp sự chống đối, chúng ta sẽ tập trung vào các hành động và sự kiện xung quanh đến nỗi không có thời gian để cảm thấy không vui vẻ. Và từ đó chúng ta sẽ cảm nhận trực tiếp một trật tự trong những khía cạnh cấu thành cuộc sống, lắp ghép mọi suy nghĩ và cảm xúc thành một tổng thể hài hòa.
KHÔI PHỤC SỰ HÀI HÒA
Hệ quả của việc rèn giũa cuộc sống bằng mục đích và sự quyết tâm là một cảm giác hài hòa nội tại, một trật tự năng động trong nội dung của ý thức. Nhưng cũng có thể xảy ra tranh cãi rằng tại sao phải khó khăn như vậy để đạt được trật tự nội tại này? Tại sao người ta phải cố gắng quá nhiều để biến cuộc sống thành một trải nghiệm dòng chảy mạch lạc? Không phải con người sinh ra đã tự có bình an sao – chẳng phải có trật tự là bản chất tự nhiên của con người sao?
Trạng thái ban đầu của con người, trước khi phát triển ý thức phản tỉnh, phải là một trạng thái bình yên nội tại chỉ thỉnh thoảng bị xáo trộn bởi những cơn đói, bản năng giới tính, sự đau đớn và nguy hiểm. Các hình thức của entropy tâm thần hiện đang khiến chúng ta vô cùng đau khổ – những mong muốn không được thỏa mãn, những kỳ vọng đổ vỡ, sự cô đơn, thất vọng, lo lắng, tội lỗi – hầu như tất cả là những kẻ xâm lược tâm trí mới xuất hiện gần đây. Chúng là sản phẩm phụ của sự gia tăng dữ dội về độ phức tạp ở vỏ não và sự làm giàu biểu tượng của văn hóa. Chúng là mặt tối của sự xuất hiện của ý thức.
Nếu chúng ta diễn giải cuộc đời của động vật bằng cách nhìn của con người, chúng ta sẽ kết luận rằng chúng đạt trạng thái dòng chảy trong hầu hết thời gian bởi vì nhận thức của chúng về những gì phải làm thường trùng với những gì chúng sẵn sàng làm. Khi một con sư tử cảm thấy đói, nó sẽ bắt đầu gầm gừ và tìm kiếm con mồi cho đến khi cơn đói được thỏa mãn; sau đó, nó nằm xuống tắm nắng, mơ những giấc mơ của sư tử. Không có lý do để tin rằng nó khổ sở vì những tham vọng chưa được thực hiện, hoặc bị choáng ngợp bởi các trách nhiệm cấp bách. Kỹ năng của động vật luôn phù hợp với nhu cầu cụ thể bởi vì tâm trí của chúng, như chính chúng vậy, chỉ chứa thông tin về những gì thực sự có trong môi trường liên quan đến trạng thái cơ thể của chúng, như đã được xác định bởi bản năng. Vì vậy, một con sư tử đói chỉ nhận thức được điều gì sẽ giúp nó tìm thấy một con linh dương, trong khi một con sư tử no nê có thể tập trung hoàn toàn vào sự ấm áp của mặt trời. Tâm trí của nó không cân nhắc các khả năng không có sẵn ở thời điểm hiện tại; nó không tưởng tượng ra những lựa chọn thay thế dễ chịu, cũng không bị xáo trộn bởi nỗi sợ thất bại.
Động vật cũng đau khổ giống như chúng ta khi các mục tiêu được lập trình sinh học của chúng rơi vào tuyệt vọng. Chúng cảm thấy những cơn dằn vặt vì đói, đau đớn và những ham muốn tình dục không được thỏa mãn. Loài chó được thuần dưỡng để làm bạn với con người sẽ cảm thấy quẫn trí khi bị chủ của chúng bỏ lại một mình. Nhưng động vật khác với con người, chúng không ở trong vị thế là nguyên nhân sự đau khổ của chính chúng; chúng không tiến hóa đủ để có thể cảm thấy bối rối và tuyệt vọng sau khi tất cả các nhu cầu của chúng đã được thỏa mãn. Khi không có xung đột do bên ngoài gây ra, chúng hòa hợp với chính mình và trải nghiệm sự tập trung liền mạch mà con người chúng ta gọi là trạng thái dòng chảy.
Đặc thù của trạng thái entropy tâm thần của con người bao hàm việc nhìn thấy nhiều việc phải làm hơn là những gì người ta thực sự có thể hoàn thành và cảm thấy có thể hoàn thành nhiều hơn những gì điều kiện cho phép. Nhưng việc này chỉ trở nên khả thi nếu một cá nhân luôn để tâm đến nhiều mục tiêu cùng một lúc, nhận thức được cùng lúc những mong muốn mâu thuẫn. Nó chỉ có thể xảy ra khi tâm trí không chỉ biết những–gì–tồn–tại mà còn những–gì–có–thể. Hệ thống càng phức tạp thì càng có nhiều chỗ dành cho các lựa chọn thay thế và càng có nhiều thứ có thể đi chệch hướng. Điều này chắc chắn có thể áp dụng cho sự tiến hóa của tâm trí: vì nó đã tăng sức mạnh để xử lý thông tin, nên khả năng xung đột nội tâm cũng tăng theo. Khi có quá nhiều yêu cầu, lựa chọn, thách thức, chúng ta trở nên lo lắng; khi quá ít, chúng ta lại bắt đầu chán chường.
Để theo đuổi phép loại suy về mặt tiến hóa và mở rộng nó từ tiến hóa sinh học sang tiến hóa xã hội, thì có lẽ đúng là ở các nền văn hóa kém phát triển, nơi mà số lượng và độ phức tạp của các vai trò xã hội, của các mục tiêu và hành động là không đáng kể, thì cơ hội để trải nghiệm dòng chảy là lớn hơn. Huyền thoại về “những người man dã hạnh phúc” được dựa trên quan sát rằng khi không có các mối đe dọa bên ngoài, con người thời kỳ tiền văn tự thường thể hiện sự thanh thản đáng thèm muốn đối với những vị du khách đến từ các nền văn hóa khác biệt hơn. Nhưng huyền thoại chỉ kể một nửa câu chuyện: khi đói hoặc bị tổn thương, “người man dã” không hạnh phúc hơn chúng ta; và anh ta có thể phải ở trong tình trạng đó thường xuyên hơn chúng ta. Sự hòa hợp nội tại của những người kém tiến bộ về công nghệ là mặt tích cực của những lựa chọn hạn chế và của những kỹ năng ổn định của họ, cũng giống như sự bối rối trong tâm hồn chúng ta là hậu quả thiết yếu của những cơ hội không giới hạn và khả năng hoàn thiện không ngừng. Goethe đã trình bày song đề nan giải này trong cuộc mặc cả của bác sĩ Faust, nguyên mẫu của người hiện đại, kẻ giao kèo với Mephistopheles: vị bác sĩ giỏi có được kiến thức và sức mạnh, nhưng với cái giá là tạo ra sự bất hòa hợp trong tâm hồn.
Không cần phải đến những vùng đất xa xôi để xem dòng chảy có thể là một phần tự nhiên của cuộc sống như thế nào. Mọi đứa trẻ, trước khi sự tự ý thức bắt đầu can thiệp, đều hành động một cách tự nhiên với sự phóng túng tuyệt đối và tham gia hoàn toàn. Buồn chán là trạng thái mà trẻ em phải học theo những cách khắc nghiệt, trong sự đáp ứng các lựa chọn bị hạn chế một cách phi tự nhiên. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là trẻ em luôn hạnh phúc. Cha mẹ khắc nghiệt hay thờ ơ, nghèo đói và bệnh tật, những tai nạn không thể tránh khỏi trong cuộc sống khiến con cái khổ sở vô cùng. Nhưng một đứa trẻ hiếm khi không hạnh phúc mà không có lý do chính đáng. Việc mọi người có xu hướng rất hoài niệm về những năm đầu của mình là hoàn toàn dễ hiểu; giống như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy, nhiều người cảm thấy rằng sự thanh thản hết lòng của thời thơ ấu, sự tham gia trọn vẹn vào hiện tại ngày càng khó tìm lại khi năm tháng trôi qua.
Khi chúng ta chỉ có thể tưởng tượng đến một vài cơ hội và vài khả năng, thì việc đạt được sự hài hòa là tương đối dễ dàng. Mong muốn đơn giản, thì sự lựa chọn là rõ ràng. Có rất ít chỗ cho xung đột và không cần phải thỏa hiệp. Đây là trật tự của một hệ thống đơn giản – trật tự mặc định, như nó vốn dĩ. Đó là một sự hòa hợp mong manh; từng bước, với sự gia tăng của sự phức tạp, thì cơ hội của entropy được tạo ra bởi hệ thống cũng tăng theo.
Chúng ta có thể tách ra nhiều yếu tố để giải thích tại sao ý thức trở nên phức tạp hơn. Ở cấp độ của loài, sự tiến hóa sinh học của hệ thống thần kinh trung ương là một nguyên nhân. Không còn bị cai trị hoàn toàn bởi bản năng và phản xạ, tâm trí được ban cho sự lựa chọn, một phước lành không đáng tin cậy. Ở cấp độ lịch sử loài người, sự phát triển của văn hóa – ngôn ngữ, hệ thống niềm tin, công nghệ – là một lý do khác khiến nội dung của tâm trí trở thành biệt hóa. Khi các hệ thống xã hội chuyển từ các bộ lạc săn bắn nằm rải rác thành các thành phố đông đúc, chúng tạo ra các vai trò chuyên biệt hơn mà thường đòi hỏi những suy nghĩ và hành động mâu thuẫn từ cùng một người. Không còn chuyện mọi người đàn ông đều là một thợ săn, có cùng các kỹ năng và sở thích với mọi người khác. Người nông dân và người xay xát, giáo sĩ và người lính giờ đây nhìn thế giới qua những nhãn quan khác nhau. Không có cách cư xử đúng đắn duy nhất và mỗi vai trò đòi hỏi những kỹ năng khác nhau. Cũng trong vòng đời của mỗi cá nhân, theo lứa tuổi, người ta ngày càng tiếp xúc nhiều với các mục tiêu mâu thuẫn, với các cơ hội hành động không tương thích. Các lựa chọn của một đứa trẻ thường rất ít và nhất quán; với mỗi năm trôi qua, chúng càng ít được như vậy hơn. Sự rõ ràng trước đó làm cho dòng chảy tự phát là điều khả dĩ có thể bị lu mờ bởi sự va chạm hỗn độn của các giá trị khác biệt, những niềm tin, lựa chọn và hành vi.
Vài người sẽ tranh cãi rằng một ý thức đơn giản hơn, bất kể có hài hòa ra sao, cũng là đáng quý hơn so với một ý thức phức tạp hơn. Mặc dù chúng ta có thể ngưỡng mộ sự thanh thản của con sư tử khi nghỉ ngơi, việc yên ổn chấp nhận số phận của các bộ lạc man dã, hoặc sự tham gia trọn vẹn vào hiện tại của đứa trẻ, nhưng những điều này lại không thể đưa ra một mô hình để giải quyết tình trạng khó khăn của chúng ta. Trật tự dựa trên sự ngây thơ giờ đây đã nằm ngoài tầm với của chúng ta. Một khi trái cấm đã được hái xuống khỏi cây tri thức, con đường trở về Eden đã bị đóng vĩnh viễn.
SỰ THỐNG NHẤT Ý NGHĨA TRONG CÁC CHỦ ĐỀ CUỘC SỐNG
Thay vì chấp nhận sự thống nhất của mục đích được cung cấp bởi các chỉ dẫn di truyền hay bởi các quy tắc xã hội, thử thách dành cho chúng ta là tạo ra sự hài hòa dựa trên lý lẽ và lựa chọn của mình. Các triết gia như Heidegger, Sartre và Merleau–Ponty đều đã công nhận nhiệm vụ này của những con người hiện đại bằng việc gọi nó là dự án, theo hàm nghĩa là những hành động được định hướng bởi mục tiêu, cung cấp sự định hình và ý nghĩa cho cuộc đời một cá nhân. Các nhà tâm lý học đều từng dùng các thuật ngữ như đấu tranh tương thích hay các chủ đề cuộc sống (life themes). Ở mỗi trường hợp, các khái niệm này xác định một chuỗi các mục tiêu có liên kết với một mục tiêu tối hậu, mang đến ý nghĩa cho bất cứ điều gì một cá nhân thực hiện.
Chủ đề cuộc sống, giống như một trò chơi, quy định những quy tắc và hành động mà một cá nhân phải tuân theo để trải nghiệm trạng thái dòng chảy, xác định những gì sẽ làm cho cuộc hiện sinh trở nên có tính thưởng thức. Với một chủ đề cuộc sống, mọi thứ xảy ra đều sẽ mang một ý nghĩa – không nhất thiết là một ý nghĩa tích cực, nhưng vẫn có ý nghĩa. Nếu ai đó dồn tất cả năng lượng của mình cho mục tiêu kiếm được một triệu đô-la trước khi ba mươi tuổi, thì bất cứ điều gì xảy ra đều là một bước tiến, hoặc đến gần hơn, hoặc chệch khỏi mục tiêu đó. Sự phản hồi rõ ràng sẽ giúp giữ người đó dấn thân hoàn toàn vào hành động của mình. Ngay cả khi mất hết tất cả tiền bạc, thì suy nghĩ và hành động của người đó vẫn được ràng buộc nhau bởi một mục đích chung và họ sẽ có được trải nghiệm xứng đáng. Tương tự, một người quyết định rằng tìm ra cách chữa trị ung thư là điều cô muốn đạt được hơn tất cả những thứ khác thường sẽ biết liệu cô có tiến gần hơn đến mục tiêu của mình hay không – dù trong trường hợp nào thì điều cần phải làm là rõ ràng và bất cứ điều gì cô làm sẽ đều có ý nghĩa.
Khi năng lượng tinh thần của một người hợp nhất vào một chủ đề cuộc sống, ý thức sẽ đạt được sự hài hòa. Nhưng không phải mọi chủ đề cuộc sống đều có hiệu suất như nhau. Các nhà triết học hiện sinh phân biệt rõ ràng, giữa các dự án chính thực (authentic) và các dự án phi thực (inauthentic). Cái đầu tiên mô tả chủ đề của một người nhận ra rằng các lựa chọn là mang tính tự do và đưa ra quyết định cá nhân dựa trên một sự đánh giá lý tính các trải nghiệm của họ. Không quan trọng lựa chọn là gì, miễn là nó biểu đạt được những gì người đó thực sự cảm thấy và tin tưởng. Các dự án phi thực là những dự án mà ai đó lựa chọn bởi vì chúng là những gì người đó cảm thấy là nên làm, bởi vì chúng là những gì mà mọi người cũng đang làm và do đó không có lựa chọn thay thế nào. Các dự án chính thực có xu hướng được thúc đẩy từ bên trong, được lựa chọn vì chúng có giá trị tự thân; các dự án phi thực lại được thúc đẩy bởi các lực lượng bên ngoài. Một sự phân biệt tương tự là giữa các chủ đề cuộc sống được khám phá, khi một người viết kịch bản cho các hành động của mình dựa trên kinh nghiệm cá nhân và nhận thức về lựa chọn; và các chủ đề cuộc sống được chấp nhận, khi một người chỉ đơn giản đảm nhận vai trò được định trước từ một kịch bản được viết bởi những người khác từ lâu.
Cả hai loại chủ đề cuộc sống này đều giúp mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, nhưng mỗi loại đều có nhược điểm riêng. Chủ đề cuộc sống được chấp nhận sẽ hoạt động tốt chừng nào hệ thống xã hội còn lành mạnh; bằng không, nó có thể bẫy người ta vào những mục tiêu tha hóa, biến thái. Adolf Eichmann, một tên phát xít Đức đã bình tĩnh vận chuyển hàng chục ngàn người đến các phòng chứa khí độc, là một người xem các quy tắc quan liêu là thiêng liêng. Hắn ta có lẽ cũng trải nghiệm dòng chảy khi hắn thay đổi lịch trình phức tạp của các chuyến tàu hỏa để đảm bảo rằng những chuyến xe chuyển hàng khan hiếm có sẵn khi cần thiết và các thi thể được vận chuyển với chi phí thấp nhất. Hắn ta dường như không bao giờ đặt câu hỏi liệu những gì mình được yêu cầu làm là đúng hay sai. Chỉ cần tuân theo mệnh lệnh, ý thức của hắn đã được hòa hợp. Đối với hắn, ý nghĩa của cuộc sống là trở thành một phần của một thể chế mạnh mẽ, có tổ chức; không điều gì khác là quan trọng. Trong thời bình, một người đàn ông có quy củ như Adolf Eichmann có thể là một trụ cột đáng quý của cộng đồng. Nhưng lỗ hổng trong chủ đề cuộc sống của người này trở nên rõ ràng khi những kẻ vô đạo đức và loạn trí chiếm quyền kiểm soát xã hội; khi đó một công dân chính trực như vậy sẽ biến thành một kẻ tiếp tay cho tội ác mà không phải thay đổi mục tiêu của mình và thậm chí không nhận ra sự vô nhân đạo trong hành động của mình.
Các chủ đề cuộc sống được khám phá, lại mong manh dễ vỡ vì một lý khác: vì chúng là những sản phẩm của một cuộc đấu tranh cá nhân để định nghĩa một mục đích cho cuộc sống nên chúng có ít tính tương thích xã hội hơn; vì chúng thường mới lạ và mang đặc tính riêng nên chúng có thể bị người khác xem là điên rồ hoặc không có tính xây dựng. Một số chủ đề cuộc sống mạnh mẽ nhất được dựa trên các mục tiêu cổ xưa của nhân loại, nhưng được tái khám phá một cách mới mẻ và được lựa chọn một cách tự do bởi một cá nhân. Malcolm X79, người mà trong những năm đầu đời đã tuân theo một kịch bản hành vi dành cho những nam thanh niên sống trong khu ổ chuột – ẩu đả và buôn bán ma túy để rồi vào tù – thông qua việc đọc và phản tỉnh, đã đề ra một mục tiêu hoàn toàn khác để đạt được phẩm giá và lòng tự trọng. Về bản chất, ông đã tạo ra một căn tính hoàn toàn mới, mặc dù đó là một bản sắc được tạo thành từ các mảnh ghép của thành tựu trước đó của con người. Thay vì tiếp tục chơi trò chơi của những kẻ phạm pháp, ông đã tạo ra một mục đích phức tạp hơn – có thể giúp đỡ cho cuộc sống của nhiều con người bên lề khác, cả da đen lẫn da trắng.
Một người đàn ông được phỏng vấn ở một trong các nghiên cứu của chúng tôi, người mà chúng tôi tạm gọi là E., đã cung cấp một ví dụ khác về cách phát hiện chủ đề cuộc sống, mặc dù mục đích làm cơ sở cho chủ đề đó là một mục đích rất cổ xưa. E. lớn lên là con trai của một gia đình nhập cư nghèo vào đầu thế kỷ này. Cha mẹ anh chỉ có vốn tiếng Anh ít ỏi và gần như không thể đọc và viết. Họ đã bị đe dọa bởi nhịp sống điên cuồng của New York, nhưng họ tôn thờ và ngưỡng mộ nước Mỹ và chính quyền đại diện cho nó. Khi E. lên bảy tuổi, cha mẹ đã dành một phần lớn tiền tiết kiệm để mua tặng cậu một chiếc xe đạp nhân dịp sinh nhật cậu. Vài ngày sau đó, khi đang đạp xe trong xóm, cậu bị một chiếc xe hơi phớt lờ biển báo dừng tông phải. E. bị thương nặng và chiếc xe đạp của cậu thì nát bét. Người lái chiếc xe là một bác sĩ giàu có; ông ta chở E. đến bệnh viện, yêu cầu cậu không báo cáo những gì đã xảy ra, bù lại ông ta hứa sẽ trả toàn bộ chi phí điều trị và mua cho cậu một chiếc xe đạp mới. E. và cha mẹ cậu đã bị thuyết phục và họ đã đồng ý với thỏa thuận đó. Thật không may, vị bác sĩ không bao giờ xuất hiện trở lại và cha của E. đã phải vay tiền để trả hóa đơn bệnh viện đắt đỏ; chiếc xe đạp không bao giờ được đền bù.
Sự kiện này có thể đã trở thành một chấn thương tinh thần để lại vết sẹo trong tâm hồn E. vĩnh viễn, biến anh thành một người đa nghi, người mà kể từ đó sẽ luôn chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân bằng mọi giá. Nhưng thay vì thế, E. đã rút ra một bài học lạ lùng từ trải nghiệm của mình. E. đã dùng nó để tạo ra một chủ đề cuộc sống mà không chỉ mang đến ý nghĩa cho cuộc đời mình, mà còn giúp giảm entropy trong trải nghiệm của nhiều người khác. Suốt nhiều năm sau vụ tai nạn, E. và bố mẹ anh đã cảm thấy cay đắng, đầy hoài nghi và hoang mang trước những mưu tính của người lạ. Cha của E., cảm thấy rằng ông là một kẻ thất bại, đã uống rượu rất nhiều, trở nên buồn rầu và khép kín hơn. Như thể nghèo đói và bất lực đã phát huy tác dụng mà chúng mong đợi. Nhưng khi mười bốn, mười lăm tuổi, ở trường, E. đọc được bản Hiến pháp Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền. E. kết nối các nguyên tắc trong các tài liệu đó với kinh nghiệm của chính mình. Cậu dần dần nhận thức được rằng sự nghèo đói và tha hóa của gia đình cậu không phải là lỗi của họ, mà là kết quả của việc không nhận thức được quyền của họ, của việc không biết luật chơi, không có đại diện hiệu quả giữa những người có quyền lực kia.
Cậu quyết định trở thành một luật sư, không chỉ để cải thiện cuộc sống của riêng mình, mà còn để chắc chắn rằng những bất công như cậu từng gánh chịu sẽ không dễ dàng xảy ra lần nữa với những người khác đồng cảnh ngộ với cậu. Một khi đã đặt ra mục tiêu này cho đời mình, lòng quyết tâm của E. chưa bao giờ lay chuyển. E. được nhận vào trường luật, làm thư ký cho một thẩm phán nổi tiếng, rồi chính anh trở thành thẩm phán và ở đỉnh cao sự nghiệp của mình, anh dành nhiều năm trong nội các của tổng thống góp sức phát triển các chính sách và bộ luật dân quyền mạnh mẽ hơn để giúp đỡ những người thiệt thòi. Cho đến cuối đời, suy nghĩ, hành động và cảm xúc của anh đều được thống nhất bởi chủ đề anh đã chọn khi còn là một thiếu niên. Mọi điều anh làm cho đến những ngày cuối đời đều là một phần của một trò chơi vĩ đại, được gắn chặt với nhau bởi các mục tiêu và quy tắc mà anh đã đồng ý tuân theo. Anh cảm thấy cuộc đời của mình có ý nghĩa và anh tận hưởng việc đương đầu với những thử thách đến với mình.
Ví dụ của E. minh họa một số đặc điểm chung về cách mọi người rèn giũa các chủ đề cuộc sống được khám phá. Ban đầu, chủ đề trong nhiều trường hợp là một phản ứng đối với một tổn thương cá nhân to lớn ai đó phải chịu trong giai đoạn đầu đời – mồ côi, bị bỏ rơi hoặc bị đối xử bất công. Nhưng điều quan trọng không phải là bản thân chấn thương; sự kiện bên ngoài không bao giờ xác định chủ đề sẽ là gì. Điều quan trọng là sự diễn giải mà người ta áp đặt vào nỗi đau khổ. Nếu một người cha là một người nghiện rượu tàn bạo, con cái ông ta có một số lựa chọn để giải thích cho những điều không ổn: chúng có thể nói với bản thân rằng người cha là một lão khốn đáng chết; rằng ông là một người đàn ông và tất cả đàn ông đều yếu đuối và bạo lực; rằng nghèo đói là nguyên nhân gây nên sự đau khổ của người cha và cách duy nhất để tránh số phận giống như ông là trở nên giàu có; rằng một phần lớn hành vi của ông đến từ sự bất lực trong cuộc sống và thiếu giáo dục. Chỉ có lời giải thích cuối trong số những giải thích có vẻ ngang bằng này là có khả năng dẫn đến phương hướng chủ đề cuộc sống như E. đã phát triển.
Vì vậy, câu hỏi tiếp theo là, những loại diễn giải nào cho sự đau khổ của một cá nhân có thể dẫn đến chủ đề cuộc sống phản entropy? Nếu một đứa trẻ bị hành hạ bởi một người cha tàn bạo đi đến kết luận rằng vấn đề nằm ở bản chất của con người, rằng tất cả đàn ông đều yếu đuối và bạo lực, thì sẽ không có nhiều điều nó có thể làm để đối phó hay xoay trở với tình thế đó. Làm thế nào một đứa trẻ có thể thay đổi bản chất con người? Để tìm thấy mục đích trong đau khổ, người ta phải diễn giải nó như một thử thách có thể vượt qua. Trong trường hợp này, bằng cách diễn giải vấn đề của mình là do sự bất lực của các nhóm thiểu số bị tước quyền công dân và không phải là lỗi của cha mình, E. đã có thể phát triển các kỹ năng phù hợp – sự đào tạo về pháp lý của mình – để đối mặt với những thách thức mà anh nhìn thấy tận gốc về những gì bất ổn trong cuộc sống cá nhân của anh. Điều biến đổi hệ quả của một sự kiện đau thương thành một thách thức mang lại ý nghĩa cho cuộc sống là những gì được gọi là cấu trúc tiêu tán trong chương trước, hoặc khả năng lập ra trật tự từ sự hỗn loạn.
Cuối cùng, một chủ đề cuộc sống phức tạp, không có entropy thì hiếm khi được hình thành bởi phản ứng cho chỉ một vấn đề cá nhân. Thay vào đó, thách thức trở thành khái quát hóa cho người khác, hoặc cho toàn nhân loại. Ví dụ, trong trường hợp của E., anh quy vấn đề bất lực không chỉ cho bản thân hay gia đình mà còn cho tất cả những người nhập cư nghèo ở trong hoàn cảnh như cha mẹ anh đã từng trải qua. Do đó, bất cứ giải pháp nào anh tìm thấy cho các vấn đề của riêng mình đều có lợi cho không chỉ bản thân anh, mà còn cho nhiều người khác nữa. Cách tổng quát hóa các giải pháp này là điển hình của các chủ đề cuộc sống không có entropy; nó mang lại sự hài hòa cho cuộc sống của nhiều người.
Gottfried, một trong những người được phỏng vấn bởi nhóm Đại học Chicago của chúng tôi, cung cấp một ví dụ tương tự. Khi còn nhỏ, Gottfried rất gần gũi với mẹ và ký ức về những năm đầu đời của anh rất tươi sáng và ấm áp. Nhưng trước khi anh lên mười, mẹ anh bị ung thư và qua đời trong đau đớn. Cậu trai trẻ ấy có thể cảm thấy thương hại bản thân và trở nên chán nản, hoặc cậu có thể phát triển sự cay độc thành một lớp bảo vệ. Thay vào đó, Gottfried bắt đầu nghĩ về căn bệnh này như là kẻ thù cá nhân của mình và thề sẽ đánh bại nó. Anh lấy được bằng y khoa đúng dự kiến và trở thành một bác sĩ nghiên cứu ung thư và kết quả công việc của anh đã trở thành một phần của mô hình kiến thức mà cuối cùng sẽ giải phóng nhân loại khỏi tai họa này. Trong trường hợp này, một lần nữa, một bi kịch cá nhân đã biến thành một thử thách có thể đương đầu. Trong sự phát triển các kỹ năng để đương đầu với thử thách đó, cá nhân còn đồng thời cải thiện cuộc sống của những người khác.
Kể từ thời Freud, các nhà tâm lý học đã quan tâm đến việc lý giải cách mà những chấn thương thời thơ ấu dẫn đến rối loạn tâm thần ở người trưởng thành. Đường dây nhân quả này khá dễ hiểu. Khó giải thích hơn và thú vị hơn là kết quả ngược lại: những trường hợp mà đau khổ mang lại cho một cá nhân sự khích lệ để trở thành một nghệ sĩ vĩ đại, một chính khách thông thái, hoặc một nhà khoa học tài ba. Nếu người ta cho rằng các sự kiện bên ngoài ắt phải định đoạt những hệ quả tâm thần, thì sẽ hợp lý khi nhìn nhận rằng phản ứng nhiễu tâm đối với đau khổ là bình thường, còn phản ứng mang tính xây dựng là sự “phòng thủ” hay “sự thăng hoa”. Nhưng nếu người ta cho rằng mọi người có sự lựa chọn về cách họ phản ứng với các sự kiện bên ngoài, ở việc họ quy cho điều gì là đau khổ, thì khi đó người ta có thể diễn giải phản ứng mang tính xây dựng là bình thường và phản ứng nhiễu tâm là một thất bại trong việc vượt qua thử thách, là một lỗ hổng trong khả năng đạt trạng thái dòng chảy.
Điều gì làm cho một số người có thể phát triển một mục đích cố kết, trong khi những người khác chật vật trải qua một cuộc sống trống rỗng hoặc vô nghĩa? Tất nhiên, không có câu trả lời đơn giản nào, bởi vì liệu một người có khám phá ra một chủ đề hài hòa trong sự hỗn loạn bề ngoài của các trải nghiệm hay không rõ ràng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, cả bên trong và bên ngoài. Ta dễ dàng ngờ vực việc cuộc đời có ý nghĩa với những người sinh ra đã khuyết tật, nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng ngay cả ở hoàn cảnh này, đây không phải là trường hợp chắc chắn: Antonio Gramsci, nhà triết học của chủ nghĩa xã hội nhân đạo và một người để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng châu Âu gần đây, sinh ra đã là một người gù lưng trong một túp lều nhà nông khốn khổ. Khi ông lớn lên, cha ông đã bị bỏ tù trong nhiều năm (mà sự thật là đã bị xét xử bất công) và gia đình hầu như chỉ có thể cố gắng sống qua ngày. Khi là một đứa trẻ, Antonio đã ốm yếu đến nỗi người ta cho rằng, trong nhiều năm, mẹ ông đã mặc cho ông những bộ quần áo đẹp nhất vào mỗi buổi tối và cho ông ngủ trong một chiếc quan tài, nghĩ rằng ông sẽ không qua khỏi. Nhìn chung, đó không phải là một khởi đầu hứa hẹn lắm. Tuy nhiên, bất chấp những điều này và nhiều bất lợi khác, Gramsci đã đấu tranh để sống sót và thậm chí đã thành công trong việc tự học. Và ông không dừng lại khi đạt được một sự bảo đảm vừa đủ với tư cách một nhà giáo, bởi ông đã quyết định những gì ông thật sự muốn ở cuộc đời này là đấu tranh chống lại những quy ước xã hội đã làm suy kiệt sức khỏe của mẹ ông và hủy hoại danh dự của cha ông. Cuối cùng, ông trở thành một giáo sư đại học, một nghị sĩ trong nghị viện và là một trong những nhà lãnh đạo chống lại chủ nghĩa phát xít can trường nhất. Cho đến cuối cùng, trước khi qua đời ở một trong những nhà tù của Mussolini, ông đã viết những bài luận xuất sắc về một thế giới tuyệt vời mà chúng ta có thể có nếu con người ngừng sợ hãi và tham lam.
Có rất nhiều ví dụ về kiểu tính cách này đến nỗi người ta chắc chắn không thể giả định rằng có mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa những xáo trộn bên ngoài ở thời thơ ấu và sự thiếu ý nghĩa ở bên trong ở cuộc sống sau này: Thomas Edison khi còn nhỏ rất ốm yếu và bị giáo viên đánh giá là chậm phát triển; Eleanor Roosevelt từng bị xem là môt thiếu nữ cô độc và có vấn đề về thần kinh; những năm tháng đầu đời của Albert Einstein thì tràn ngập lo âu và thất vọng – vậy mà cuối cùng họ đã tạo nên cuộc đời hữu ích và đầy sức mạnh cho chính mình.
Nếu có một chiến lược chung giữa những người này và giữa những người thành công khác trong việc xây dựng ý nghĩa cho những trải nghiệm của họ, thì đó là một chiến lược đơn giản và hiển nhiên đến mức gần như nói ra thì có vẻ ngớ ngẩn. Tuy nhiên, vì nó thường bị bỏ qua, đặc biệt là ngày nay, nên sẽ hữu ích nếu ta xem xét nó. Chiến lược này cốt ở việc rút ra từ trật tự đã được thiết lập bởi các mô thức của những thế hệ trước mà sẽ giúp tránh sự rối loạn trong tâm trí của chúng ta. Có rất nhiều kiến thức – hay thông tin được sắp xếp hợp lý – đã được tích lũy trong văn hóa, sẵn sàng cho sự áp dụng này. Kiệt tác âm nhạc, kiến trúc, nghệ thuật, thơ ca, kịch, khiêu vũ, triết học và tôn giáo luôn có sẵn cho bất cứ ai xem chúng là những ví dụ của cách đạt được sự hài hòa từ hỗn loạn. Vậy mà rất nhiều người lại phớt lờ chúng, kỳ vọng tạo ra ý nghĩa cho cuộc đời họ bằng các công cụ của riêng mình.
Làm vậy cũng giống như mỗi thế hệ lại cố gắng xây dựng văn hóa vật chất từ con số không. Không ai với một tâm trí minh mẫn lại muốn tái phát minh bánh xe, lửa, điện, hay hàng triệu vật thể và quy trình mà chúng ta đang hiển nhiên coi là một phần trong môi trường sống của con người. Thay vào đó, chúng ta học cách làm những thứ này bằng cách nhận những thông tin có trật tự từ giáo viên, từ sách vở, từ những hình mẫu, để được hưởng lợi từ kiến thức của quá khứ và cuối cùng vượt trội hơn nó. Loại trừ những thông tin về cách sống mà tổ tiên chúng ta khó khăn lắm mới tích lũy được hoặc mong muốn tự mình khám phá ra một bộ mục tiêu khả thi, chính là sự ngạo mạn sai lầm. Cơ hội thành công cho việc này cũng nhiều như khi cố gắng chế tạo kính hiển vi điện tử mà không cần các công cụ và kiến thức về vật lý vậy.
Những người ở độ tuổi trưởng thành phát triển được các chủ đề cuộc sống cố kết thường nhớ lại rằng khi họ còn rất nhỏ, cha mẹ đã thường kể những câu chuyện hoặc đọc sách cho họ nghe. Những câu chuyện cổ tích, những câu chuyện trong Kinh thánh, những việc làm anh hùng trong lịch sử và những sự kiện gia đình sâu sắc được kể bởi những người lớn thân yêu và đáng tin cậy sẽ thường là những gợi ý đầu tiên về trật tự có ý nghĩa mà một cá nhân thu nhặt được từ kinh nghiệm trong quá khứ. Ngược lại, trong những nghiên cứu của mình, chúng tôi cũng nhận ra rằng những cá nhân không bao giờ tập trung vào bất kỳ mục tiêu nào, hoặc những cá nhân chấp nhận một cách mù quáng lối sống xã hội quanh mình, có xu hướng không nhớ cha mẹ họ từng đọc hoặc kể chuyện cho họ nghe khi còn nhỏ. Những chương trình thiếu nhi sáng thứ Bảy trên truyền hình, với chủ nghĩa cổ xúy cảm xúc vô nghĩa của chúng, không có khả năng đạt được mục đích tương tự.
Bất kể nền tảng của một cá nhân là gì, vẫn có nhiều cơ hội về sau trong cuộc sống để rút ra ý nghĩa từ quá khứ. Hầu hết những người khám phá ra các chủ đề cuộc sống phức tạp đều nhớ về một bậc tiền bối hoặc một nhân vật lịch sử nào đó mà họ vô cùng ngưỡng mộ và xem là hình mẫu, hoặc họ nhớ lại đã đọc một quyển sách nào đó tiết lộ những khả năng hành động mới mẻ. Chẳng hạn như, một nhà khoa học xã hội nổi tiếng hiện nay, được kính trọng rộng rãi vì sự chính trực của mình, đã kể về việc ở tuổi vị thành niên khi đọc được quyển A Tale of Two Cities (tạm dịch: Hai kinh thành), đã bị ấn tượng mạnh mẽ như thế nào bởi sự hỗn loạn xã hội và chính trị mà Dickens đã mô tả – vốn được mô phỏng từ những hỗn loạn mà cha mẹ tác giả đã trải nghiệm ở châu Âu sau Thế chiến thứ nhất – khiến ông quyết định dành cả đời để cố gắng hiểu vì sao mọi người lại khiến cho cuộc sống của nhau trở thành khốn khổ. Một cậu bé khác được nuôi dưỡng trong một trại trẻ mồ côi khắc nghiệt, sau khi tình cờ đọc được một câu chuyện của Horatio Alger – câu chuyện kể về một thanh niên nghèo và cô độc bước vào đời bằng cách làm việc chăm chỉ và vận may – đã tự hỏi, “nếu anh ta có thể làm điều đó, tại sao mình không thể?”. Ngày nay người này là một chủ ngân hàng về hưu và nổi tiếng với lòng từ thiện của mình. Những người khác nhớ rằng đã bị thay đổi mãi mãi bởi trật tự lý tính trong Dialogues (tạm dịch: Những bài đối thoại) của Plato hoặc bởi những hành động dũng cảm của các nhân vật trong một câu chuyện khoa học viễn tưởng.
Ở chất lượng tốt nhất của mình, văn học chứa đựng thông tin có trật tự về hành vi, những mô hình của mục đích và ví dụ về những cuộc đời được tô điểm thành công xung quanh các mục tiêu có ý nghĩa. Nhiều người phải đối mặt với tính tùy tiện của sự tồn tại đã tìm thấy hy vọng từ việc biết rằng có những người khác trước họ cũng từng phải đối mặt với những vấn đề tương tự và đã thắng thế. Và đây chỉ là văn học; thế còn âm nhạc, nghệ thuật, triết học và tôn giáo thì sao?
Thỉnh thoảng tôi điều hành một cuộc hội thảo cho các nhà quản lý doanh nghiệp về chủ đề làm thế nào để xử lý cuộc khủng hoảng tuổi trung niên. Nhiều người trong số các nhà điều hành thành công này, những người đã vươn xa trong sự thăng tiến ở các tổ chức của họ và thường có cuộc sống riêng tư và gia đình bị xáo trộn, rất hoan nghênh cơ hội dành thời gian suy nghĩ về những gì họ muốn làm tiếp theo. Trong nhiều năm, tôi đã tin dùng các lý thuyết và kết quả nghiên cứu tốt nhất trong tâm lý học phát triển cho các bài giảng và thảo luận. Tôi hài lòng vừa phải với cách thức các hội thảo này diễn ra và những người tham gia thường cảm thấy rằng họ đã học được điều gì đó hữu ích. Nhưng tôi không bao giờ hoàn toàn hài lòng rằng các tài liệu có đủ ý nghĩa.
Cuối cùng tôi nảy ra ý tưởng thử một cái gì đó khác thường hơn. Tôi sẽ bắt đầu buổi hội thảo với bài đánh giá nhanh về Divina Commedia (Thần Khúc) của Dante. Rốt cuộc thì, là một tác phẩm được viết hơn sáu trăm năm trước, đây là mô tả sớm nhất mà tôi biết về một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên và cách giải quyết nó. Dante đã viết trong dòng đầu tiên của thiên trường thi tráng lệ của mình: “Ở giữa chừng chuyến hành trình cuộc đời, tôi thấy mình lạc giữa rừng tăm tối, chẳng thấy đâu nẻo về chính đạo”. Điều diễn ra sau đó là một sự bấu víu và theo nhiều cách vẫn còn liên quan đến những khó khăn gặp phải ở tuổi trung niên.
Trước hết, lang thang trong khu rừng tối tăm, Dante nhận ra rằng ba con thú hung dữ đang rình rập ông, liếm mép trong sự chực chờ. Chúng gồm một con sư tử, một con linh miêu và một con sói, đại diện cho tham vọng, ham muốn và tham lam. Theo nhân vật chính của một trong những tác phẩm bán chạy nhất năm 1988, một nhà giao dịch trái phiếu tuổi trung niên ở New York trong tiểu thuyết châm biếm Bonfire of the Vanities (tạm dịch: Ngọn lửa hư danh) của Tom Wolfe, thì kẻ thù của Dante hóa ra là khao khát quyền lực, tình dục và tiền bạc. Để tránh bị phá hủy bởi chúng, Dante cố gắng trốn thoát bằng cách leo lên một ngọn đồi. Nhưng những con thú cứ tiếp tục đến gần và trong tuyệt vọng, Dante kêu gọi sự giúp đỡ của thần thánh. Lời cầu nguyện của ông được trả lời bởi một sự hiển linh: đó là hồn ma của Virgil, một nhà thơ đã chết hơn một ngàn năm trước khi Dante ra đời, nhưng là người viết ra những khổ thơ khôn ngoan và kỳ vĩ mà Dante ngưỡng mộ đến nỗi ông nghĩ nhà thơ là người thầy của mình. Virgil cố gắng trấn an Dante: Tin tốt là có một lối thoát ra khỏi khu rừng tối. Tin xấu là con đường đó dẫn qua địa ngục. Và xuyên qua địa ngục họ chậm rãi hướng về con đường của mình và trong lúc đi, họ chứng kiến sự đau khổ của những người chưa bao giờ chọn một mục tiêu và chứng kiến số phận thậm chí còn tồi tệ hơn của những người có mục đích cuộc đời làm tăng entropy – những người được gọi là “tội nhân”.
Tôi khá bận tâm đến việc các nhà điều hành doanh nghiệp phiền não kia tiếp nhận như thế nào với câu chuyện ngụ ngôn tuổi đời hàng thế kỷ này. Tôi đã lo lắng rằng rất có thể họ sẽ coi đó là sự lãng phí thời gian quý báu của mình. Nhưng tôi không cần lo. Vì chúng tôi chưa bao giờ có một cuộc thảo luận cởi mở và nghiêm túc về những cạm bẫy của cuộc sống trung niên và về các lựa chọn để làm phong phú những năm tiếp theo như chúng tôi đã có sau khi nói về Thần Khúc. Sau đó, một số người tham gia đã nói riêng với tôi rằng bắt đầu buổi hội thảo với Dante là một ý tưởng tuyệt vời. Câu chuyện của Dante tập trung vào các vấn đề rõ ràng đến mức việc suy nghĩ và nói về chúng sau đó trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Dante là một hình mẫu quan trọng còn vì một lý do khác nữa. Mặc dù thiên trường ca của ông được định hình bởi một lối đạo đức mang tính tôn giáo sâu sắc, nhưng rất rõ ràng với bất cứ ai đọc nó, rằng Kitô giáo của Dante không phải là một niềm tin được chấp nhận mà là một niềm tin được khám phá. Nói cách khác, chủ đề đời sống tôn giáo mà ông tạo ra được cấu thành từ những hiểu biết tốt nhất về Kitô giáo kết hợp với triết lý Hy Lạp và trí tuệ Hồi giáo mà đã được tinh lọc, đưa vào châu Âu. Đồng thời, hỏa ngục của ông có mật độ dân cư đông đúc với các giáo hoàng, các hồng y và giáo sĩ chịu tội đày vĩnh viễn. Ngay cả người hướng dẫn đầu tiên của ông, Virgil, cũng không phải là một vị thánh Cơ Đốc mà là một nhà thơ ngoại đạo. Dante nhận ra rằng mọi hệ thống trật tự tinh thần, khi được hợp nhất vào một cấu trúc trần thế – như một nhà thờ có tổ chức – sẽ bắt đầu chịu tác động của entropy. Vì vậy, để rút ra ý nghĩa từ một hệ thống niềm tin, trước hết người ta phải so sánh thông tin chứa trong đó với kinh nghiệm cụ thể của mình, giữ lại những gì có ý nghĩa và sau đó từ chối phần còn lại.
Ngày nay, chúng ta thỉnh thoảng vẫn gặp những người có cuộc sống thể hiện một trật tự nội tại dựa trên những sự thấu suốt về tinh thần của các tôn giáo lớn trong quá khứ. Bất chấp những gì chúng ta đọc mỗi ngày về tính phi đạo đức của thị trường chứng khoán, sự tham nhũng của các nhà thầu quốc phòng và sự thiếu nguyên tắc trong giới chính trị, những ví dụ ngược lại vẫn luôn tồn tại. Do đó, cũng có những doanh nhân thành đạt dành một chút thời gian rảnh rỗi vào bệnh viện để trò chuyện với những bệnh nhân sắp chết vì họ tin rằng dang cánh tay cho những người đau khổ là một phần cần thiết của một cuộc đời ý nghĩa. Và có nhiều người tiếp tục nhận được sức mạnh và sự thanh thản từ việc cầu nguyện, là những người mà một hệ thống niềm tin có ý nghĩa cá nhân đã cung cấp các mục tiêu và quy tắc cho những trải nghiệm dòng chảy mãnh liệt.
Nhưng dường như rõ ràng là ngày càng nhiều người không được cứu rỗi bởi các tôn giáo và hệ thống tín ngưỡng truyền thống. Nhiều người không thể tách biệt chân lý trong những học thuyết cũ khỏi những biến dạng và suy thoái mà thời gian đã thêm vào chúng và vì họ không thể chấp nhận lỗi lầm, họ cũng từ chối sự thật. Những người khác quá khao khát một trật tự nào đó đến nỗi – nói một cách trần trụi thì – họ bám chặt vào bất cứ niềm tin nào trong tầm tay và trở thành Kitô hữu chính thống, hoặc người theo Hồi giáo, hoặc người cộng sản.
Có bất kỳ khả năng nào cho một hệ thống các mục tiêu và phương tiện mới sẽ xuất hiện để giúp trao ý nghĩa cho cuộc sống của con cái chúng ta trong thế kỷ tới hay không? Một số người tự tin rằng Kitô giáo đã khôi phục được vinh quang trước đây, sẽ đáp ứng được nhu cầu đó. Một số khác vẫn tin rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ giải quyết được vấn đề hỗn loạn trong trải nghiệm của con người và trật tự của nó sẽ lan ra toàn thế giới. Hiện tại, cả hai kết quả này dường như không mấy khả quan.
Nếu một đức tin mới thu hút trí tưởng tượng của chúng ta, nó phải là một thứ sẽ giải thích bằng lý tính cho những điều chúng ta biết, những thứ chúng ta cảm nhận, những gì chúng ta hy vọng và những cái làm ta sợ hãi. Nó phải là một hệ thống các niềm tin mà sẽ dẫn lối năng lượng tinh thần của chúng ta hướng về những mục tiêu có ý nghĩa, một hệ thống cung cấp các quy tắc cho một lối sống có khả năng cung cấp trải nghiệm dòng chảy.
Khó tưởng tượng một hệ thống niềm tin như vậy mà không đặt cơ sở trên, ít nhất là ở một mức độ nào đó, những gì khoa học đã tiết lộ về nhân loại và về vũ trụ. Không có một nền tảng như thế, ý thức của chúng ta sẽ bị phân vân giữa đức tin và kiến thức. Nhưng nếu khoa học đóng vai trò là một sự giúp đỡ thực sự, nó sẽ phải tự chuyển hóa chính nó. Cộng thêm những bộ môn chuyên biệt khác nhau cùng hướng tới sự mô tả và kiểm soát các khía cạnh biệt lập của thực tại, khoa học sẽ phải phát triển một sự giải thích thống nhất về tất cả những gì đã biết và liên kết nó với loài người và vận mệnh của họ.
Một cách để thực hiện việc này là thông qua khái niệm tiến hóa. Mọi thứ quan trọng nhất với chúng ta – chẳng hạn những câu hỏi như: Chúng ta đến từ đâu? Chúng ta sẽ đi về đâu? Những sức mạnh nào định hình cuộc sống của chúng ta? Điều gì là tốt và điều gì là xấu? Chúng ta liên hệ với người khác và với phần còn lại của vũ trụ như thế nào? Hậu quả từ những hành động của chúng ta là gì? – có thể được thảo luận bằng một cách thức có hệ thống liên quan đến những gì chúng ta biết hiện tại về sự tiến hóa và thậm chí liên quan đến những gì chúng ta sẽ biết trong tương lai.
Điểm phê bình hiển nhiên về kịch bản này là khoa học nói chung và khoa học tiến hóa nói riêng, chỉ giải quyết những gì tồn tại, chứ không phải những gì nên tồn tại. Theo một chiều hướng khác, các đức tin và tín ngưỡng không bị giới hạn bởi thực tế; chúng làm việc với những gì là đúng, những gì đáng thèm muốn. Nhưng một trong những hệ quả của sự tiến hóa về đức tin có thể là sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa những gì tồn tại và những gì nên tồn tại. Khi chúng ta hiểu rõ hơn tại sao chúng ta là con người như hiện tại, khi chúng ta đánh giá đầy đủ hơn nguồn gốc của các động lực bản năng, những sự kiểm soát xã hội, các hình thức biểu đạt văn hóa – tất cả các yếu tố góp phần vào sự hình thành ý thức – thì sẽ dễ dàng hơn trong việc hướng năng lượng của chúng ta vào nơi cần đến.
Và triển vọng tiến hóa cũng chỉ ra một mục tiêu xứng đáng với nguồn năng lượng của chúng ta. Không nghi ngờ gì về thực tế là qua hàng tỉ năm hoạt động trên trái đất, ngày càng có nhiều dạng sống phức tạp hơn xuất hiện, lên đến đỉnh điểm bằng sự phức tạp của hệ thống thần kinh của con người. Kết quả là, vỏ não đã phát triển ý thức, thứ mà ngày nay bao phủ toàn diện khắp địa cầu giống như bầu khí quyển. Thực tại của sự phức tạp hóa bao gồm cả cái tồn tại và cái nên tồn tại: nó đã xảy ra – trao ra những điều kiện thống trị trái đất, nó chắc chắn xảy ra – nhưng nó có thể không tiếp tục trừ khi chúng ta muốn nó tiếp tục. Tương lai của sự tiến hóa giờ đang nằm trong tay chúng ta.
Trong vài ngàn năm qua – vốn chỉ là giây lát trong toàn bộ thời gian tiến hóa – nhân loại đã đạt được những tiến bộ đáng kinh ngạc trong sự biệt hóa của ý thức. Chúng ta đã phát triển một nhận thức rằng nhân loại là tách biệt với các dạng thức sống khác. Chúng ta đã quan niệm mỗi cá nhân con người là tách biệt với nhau. Chúng ta đã phát minh ra sự trừu tượng và sự phân tích – khả năng tách biệt những khía cạnh của các đối tượng và các quá trình với nhau, chẳng hạn như vận tốc rơi của một vật và khối lượng của nó. Chính sự phân biệt này đã tạo ra khoa học, công nghệ và sức mạnh chưa từng có của nhân loại để xây dựng cũng như hủy hoại môi trường sống của họ.
Nhưng sự phức tạp cũng bao hàm sự tích hợp đồng thời với sự biệt hóa. Nhiệm vụ của những thập kỷ tiếp theo là nhận ra thành tố kém phát triển này của tâm trí. Giống như chúng ta đã học cách tách mình ra khỏi người khác và khỏi môi trường, giờ đây chúng ta cần học cách thống nhất bản thân với những thực thể khác quanh ta mà không đánh mất đi cá tính khó khăn lắm mới có được của mình. Niềm tin hứa hẹn nhất về tương lai có thể dựa trên sự nhận thức rõ ràng rằng toàn bộ vũ trụ là một hệ thống được liên kết bằng những quy luật chung và rằng sẽ không có ý nghĩa gì khi áp đặt ước mơ và mong muốn của chúng ta lên tự nhiên mà không đếm xỉa gì đến chúng. Nhận thức được những giới hạn của ý chí con người, chấp nhận sự cộng sinh thay vì nghĩ mình nắm vai trò thống lĩnh trong vũ trụ, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nhẹ nhõm của những kẻ lưu vong cuối cùng cũng trở về nhà. Khi đó, vấn đề của ý nghĩa sẽ được giải quyết khi mục đích của cá nhân hợp nhất với dòng chảy của vũ trụ.