Flow (Dòng Chảy) - Mihaly Csikszentmihalyi - Chương 6
Những điều tốt đẹp trong cuộc sống không chỉ đến thông qua các giác quan. Một số trải nghiệm hưng phấn nhất chúng ta từng trải qua được tạo ra trong tâm trí, kích hoạt bởi những thông tin thử thách khả năng tư duy của chúng ta, thay vì từ việc sử dụng các kỹ năng của các giác quan. Như ngài Francis Bacon đã lưu ý gần bốn trăm năm trước, sự phản tư – hạt mầm của tri thức – là sự phản ánh của dạng thức khoái cảm thuần túy nhất. Giống như các hoạt động dòng chảy tương ứng với mọi tiềm năng thể chất của cơ thể, mọi hoạt động trí óc cũng đều có thể cung cấp trải nghiệm thưởng thức riêng biệt của chúng.
Trong số nhiều hoạt động trí óc sẵn có, đọc sách có lẽ là hoạt động dòng chảy được nhắc đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Giải câu đố trí tuệ, một hình thức hoạt động mang tính thưởng thức lâu đời nhất, là tiền thân của cả triết học lẫn khoa học hiện đại. Một số cá nhân đã trở nên thành thạo trong việc diễn giải các ký hiệu âm nhạc đến mức họ không cần phải nghe các nốt nhạc thực sự được xướng lên mà vẫn thưởng thức được một bản nhạc, họ ưa thích việc đọc bản ký âm của một khúc giao hưởng để “nghe” nó trong tâm trí. Những âm thanh tưởng tượng nhảy múa trong tâm trí họ hoàn hảo hơn bất kỳ màn trình diễn thực tế nào. Tương tự vậy, những người dành nhiều thời gian với nghệ thuật sẽ ngày càng biết đánh giá đúng các khía cạnh tình cảm, lịch sử và văn hóa của tác phẩm họ đang chiêm ngưỡng, đôi khi còn nhiều hơn cả việc họ thưởng thức các khía cạnh trực quan thuần túy của nó. Như một chuyên gia nghệ thuật đã bày tỏ điều đó: “[Tác phẩm] nghệ thuật mà tôi tiếp nhận một cách cá nhân, chứa đằng sau nó rất nhiều hoạt động nhận thức, chính trị và trí tuệ… Những hoạt động biểu diễn trực quan thực sự là những biển chỉ đường cho cỗ máy tuyệt mỹ này đã được tạo tác, độc nhất vô nhị trên trái đất, và không chỉ là sự làm mới các yếu tố thị giác, mà còn thực sự là một cỗ máy tư duy mới mẻ, mà một nghệ sĩ, thông qua phương tiện trực quan và sự kết hợp với đôi mắt, với những sự tri nhận của mình, đã tạo ra”.
Những gì người này nhìn thấy trong một bức tranh không chỉ là một hình ảnh, mà còn là một “cỗ máy tư tưởng” bao gồm những cảm xúc, niềm hy vọng và ý tưởng của người họa sĩ – cũng như tinh thần của văn hóa và giai đoạn lịch sử mà anh ta đã sống. Với sự chú tâm cẩn trọng, người ta có thể nhận ra một chiều kích tinh thần tương tự như với các hoạt động thể chất thú vị như, điền kinh, ẩm thực, hoặc tình dục. Chúng ta có thể nói rằng việc phân biệt các hoạt động dòng chảy liên quan đến chức năng cơ thể và các hoạt động liên quan đến chức năng tâm trí, ở một mức độ nào đó là bất khả, vì tất cả các hoạt động thể chất đều phải dính dáng tới ít nhất một thành tố nào đó của tâm trí, nếu chúng thực sự là hoạt động mang tính thưởng thức. Các vận động viên đều biết rõ rằng, để cải thiện hiệu suất thi đấu vượt qua một điểm nhất định, họ phải học cách kỷ luật tâm trí của mình. Và những phần thưởng nội tại mà họ nhận được bao gồm nhiều thứ hơn là chỉ sự khỏe mạnh thể chất đơn thuần: Họ trải nghiệm cảm giác hoàn thiện bản thân và gia tăng sự tự tin. Ngược lại, hầu hết các hoạt động tinh thần cũng dựa vào khía cạnh thể lý. Cờ vua, chẳng hạn, là một trong những trò chơi sử dụng trí não nhiều nhất; nhưng những kỳ thủ tài giỏi nhất đều được rèn luyện bằng hoạt động chạy bộ và bơi lội, bởi họ nhận thức được rằng nếu không khỏe mạnh về thể chất, họ sẽ không thể duy trì tập trung tinh thần trong thời gian lâu dài mà các giải đấu cờ vua đòi hỏi. Trong Yoga, sự kiểm soát ý thức được chuẩn bị bằng cách học kiểm soát các diễn trình của cơ thể và cái trước hòa trộn liền mạch với cái sau.
Do đó, dù một mặt dòng chảy luôn liên quan đến việc sử dụng cơ bắp và dây thần kinh, thì mặt khác, ý chí, suy nghĩ và cảm xúc lại có ý nghĩa để phân biệt một nhóm các hoạt động thú vị, bởi vì chúng ra lệnh cho tâm trí một cách trực tiếp hơn so với việc thông qua sự trung gian của cảm giác cơ thể. Các hoạt động này chủ yếu mang tính biểu tượng về bản chất, ở chỗ chúng phụ thuộc vào ngôn ngữ tự nhiên, toán học hoặc một số hệ thống ký hiệu trừu tượng khác, như ngôn ngữ máy tính, để đạt được hiệu quả trật tự trong tâm trí. Một hệ thống biểu tượng giống với một trò chơi ở chỗ nó cung cấp một thực tại riêng biệt, một thế giới của riêng nó, nơi người ta có thể thực hiện các hành động được phép xảy ra trong thế giới đó, nhưng sẽ không có ý nghĩa ở bất kỳ nơi nào khác. Trong các hệ thống biểu tượng, “hành động” thường bị giới hạn trong sự vận dụng về mặt tinh thần của các khái niệm.
Để thưởng thức một hoạt động tinh thần, người ta phải đáp ứng cùng những điều kiện đã làm cho hoạt động thể chất mang tính thưởng thức. Phải có kỹ năng trong một lĩnh vực tượng trưng, phải có quy tắc, mục tiêu và một phương thức tiếp nhận phản hồi. Người đó phải có khả năng tập trung và tương tác với các cơ hội tương xứng với các kỹ năng của mình.
Trong thực tế, để đạt được một điều kiện tinh thần có trật tự như vậy là không dễ dàng như vẻ ngoài của nó. Trái với những gì chúng ta có khuynh hướng cho là đúng, trạng thái bình thường của tâm trí là sự hỗn loạn. Không có sự huấn luyện và không có một đối tượng ngoại tại đòi hỏi sự chú ý nào, con người sẽ không thể tập trung suy nghĩ của họ nhiều hơn vài phút mỗi lần. Sự tập trung là tương đối dễ dàng khi sự chú ý được cấu trúc bởi các kích thích bên ngoài, chẳng hạn như khi một bộ phim đang phát trên màn hình hoặc như khi lái xe giữa một lưu lượng giao thông đông đúc. Nếu ai đó đọc một cuốn sách thú vị, điều tương tự cũng xảy ra, nhưng hầu hết độc giả đều bắt đầu mất tập trung sau vài trang và tâm trí họ đi lang thang khỏi cốt truyện. Khi đó, nếu họ muốn tiếp tục đọc, họ phải nỗ lực để thu hút sự chú ý của mình quay trở lại trang sách.
Chúng ta thường không chú ý đến việc chúng ta có ít sự kiểm soát đối với tâm trí của mình như thế nào, bởi vì các thói quen luân chuyển năng lượng tinh thần tốt đến nỗi các suy nghĩ dường như tự nối đuôi nhau mà không gặp trở ngại nào. Sau giấc ngủ, chúng ta thức dậy vào buổi sáng khi chuông báo thức reo, rồi cứ thế bước vào phòng tắm và đánh răng. Sau đó, các vai trò văn hóa xã hội tiếp tục định hình tâm trí của chúng ta và ta thường đặt mình vào chế độ điều khiển tự động cho đến cuối ngày, cũng là lúc, một lần nữa, ta để mất ý thức trong giấc ngủ. Nhưng khi chúng ta bị bỏ lại một mình, không có yêu cầu về sự chú ý, sự rối loạn cơ bản của tâm trí tự động bộc lộ. Không có gì để làm, tâm trí bắt đầu hoạt động theo những mô hình ngẫu nhiên, thường dừng lại để tâm vào một điều gì đó đau đớn hoặc muộn phiền. Trừ khi một cá nhân biết cách ra lệnh cho suy nghĩ của mình, bằng không sự chú ý sẽ bị thu hút vào bất cứ điều gì có vấn đề nhất vào thời điểm đó: nó sẽ tập trung vào một số nỗi đau thực hoặc tưởng tượng, vào những mối ác cảm gần nhất hoặc vào những thất vọng kéo dài. Entropy là trạng thái bình thường của ý thức – một trạng thái không hữu ích mà cũng chẳng mang tính thưởng thức.
Để tránh tình trạng này, người ta cố nhiên mong muốn lấp đầy tâm trí của họ với bất kỳ thông tin nào có sẵn, miễn là nó đánh lạc hướng sự chú ý khỏi việc hướng nội và đắm chìm trong cảm giác tiêu cực. Điều này giải thích tại sao có một tỉ lệ lớn thời gian được đầu tư vào việc xem tivi, mặc dù thực tế là nó rất hiếm khi được người ta thưởng thức. So với các nguồn kích thích khác – như đọc, trò chuyện với người khác hoặc theo đuổi một sở thích, thì tivi có thể cung cấp thông tin liên tục và dễ dàng truy cập, mà sẽ cấu trúc sự chú ý của người xem với rất ít phí tổn đầu tư về năng lượng tinh thần. Trong khi người ta xem tivi, họ không cần lo sợ rằng tâm trí trôi dạt của họ sẽ buộc họ phải đối mặt với những vấn đề cá nhân gây muộn phiền. Có thể hiểu rằng, một khi người ta phát triển chiến lược này để vượt qua sự hỗn loạn tinh thần, thì việc từ bỏ thói quen này trở nên gần như là không thể.
Tất nhiên, con đường tốt hơn để tránh sự hỗn loạn trong ý thức là thông qua các thói quen mang lại sự kiểm soát các quá trình tinh thần cho một cá nhân, thay vì sử dụng một số nguồn kích thích bên ngoài, chẳng hạn như các chương trình truyền hình. Tuy nhiên, để có được những thói quen như vậy đòi hỏi sự thực hành và những loại mục tiêu và quy tắc vốn gắn liền trong các hoạt động dòng chảy. Chẳng hạn, một trong những cách đơn giản nhất để sử dụng trí óc là mơ mộng: tạo ra một số chuỗi sự kiện dưới dạng hình ảnh tinh thần. Nhưng ngay cả cách thức thiết lập trật tự cho suy nghĩ có vẻ dễ dàng này cũng là vượt quá giới hạn của nhiều người. Jerome Singer, nhà tâm lý học của Đại học Yale, người đã nghiên cứu về sự mơ mộng và hình ảnh tinh thần chuyên sâu hơn bất kỳ nhà khoa học nào khác, đã chỉ ra rằng mơ mộng là một kỹ năng mà rất nhiều trẻ em không bao giờ học cách sử dụng. Tuy nhiên, mơ mộng không chỉ giúp tạo ra trật tự cảm xúc bằng cách bù đắp cho thực tế khó chịu bằng trí tưởng tượng – như khi người ta có thể giảm bớt sự thất vọng và công kích đối với người đã gây ra tổn thương cho mình bằng cách hình dung một tình huống mà người đó bị trừng phạt – mà còn cho phép trẻ em (và cả người lớn) diễn tập các tình huống tưởng tượng để có thể áp dụng chiến lược tốt nhất khi đối đầu với chúng, các lựa chọn thay thế cũng được xem xét, hậu quả khôn lường được phát hiện, – tất cả các kết quả đều giúp làm tăng sự phức tạp của ý thức. Và, tất nhiên, khi được áp dụng bằng kỹ năng, việc mơ mộng có thể trở nên vô cùng thú vị.
Để xem xét các điều kiện giúp thiết lập trật tự trong tâm trí, trước hết chúng ta sẽ xem xét vai trò cực kỳ quan trọng của bộ nhớ, sau đó là cách các từ ngữ có thể được sử dụng để tạo ra trải nghiệm dòng chảy. Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét ba hệ thống biểu tượng rất có tính thưởng thức nếu người ta hiểu các quy tắc của chúng, đó là: lịch sử, khoa học và triết học. Có nhiều lĩnh vực nghiên cứu hơn có thể được đề cập, nhưng ba lĩnh vực này có thể xem như là ví dụ cho những lĩnh vực khác. Mỗi lĩnh vực trong số những trò chơi tinh thần này, bất cứ ai muốn sử dụng chúng đều có thể truy cập được.
MẸ CỦA KHOA HỌC
Người Hy Lạp đã nhân hình hóa ký ức thành nữ thần Mnemosyne. Là mẹ của chín nữ thần Muses, bà được cho là đã sinh ra tất cả các lĩnh vực nghệ thuật và khoa học. Có thể xem trí nhớ là kỹ năng tinh thần lâu đời nhất, từ đó mà tất cả các kỹ năng khác được tạo ra, vì nếu chúng ta không thể ghi nhớ, thì chúng ta không thể tuân theo những quy tắc giúp các hoạt động tinh thần khác trở thành khả dĩ. Cả logic và thơ ca sẽ đều không thể tồn tại và những nguyên tắc sơ đẳng của khoa học cũng sẽ buộc phải tái khám phá ở mỗi thế hệ mới. Vị trí hàng đầu của trí nhớ là xác đáng, trước hết là trong phạm vi lịch sử chủng loài. Trước khi các hệ thống ký hiệu bằng văn bản được phát triển, tất cả thông tin kiến thức phải được truyền từ bộ nhớ người này sang người khác. Và nó cũng đúng về mặt lịch sử của mỗi cá nhân. Một người không có khả năng ghi nhớ sẽ bị cắt đứt mọi kiến thức về kinh nghiệm trước đó, khiến họ không thể xây dựng các khuôn mẫu ý thức để mang lại trật tự cho tâm trí. Như Buñuel đã nói, “Cuộc đời không có ký ức chẳng là cuộc đời. Trí nhớ là chất kết dính của chúng ta, là lý trí, cảm giác và thậm chí là hành động của chúng ta. Không có trí nhớ, chúng ta chẳng là gì cả”.
Tất cả các dạng thức của dòng chảy tinh thần đều phụ thuộc vào trí nhớ, trực tiếp hoặc gián tiếp. Lịch sử đã đưa ra giả thuyết rằng cách thức lâu đời nhất để tổ chức thông tin bao gồm việc gợi nhớ lại tổ tiên của một người; dòng dõi đã mang lại danh tính cho mỗi cá nhân với tư cách là thành viên của một bộ lạc hay một gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Kinh Cựu Ước, đặc biệt là trong những quyển đầu tiên, chứa rất nhiều thông tin phả hệ (ví dụ, Sáng Thế Ký 10:26–29: “Các hậu duệ của Joktan là người Almodad, Sheleph, Hazarmaveth, Jerah, Hadoram, Uzal, Diklah, Obal, Abimael, Sheba, Ophir, Havilah và Jobab…”). Biết nguồn gốc của một người và những người mà họ có liên quan là một phương pháp không thể thiếu để tạo ra trật tự xã hội khi mà không có nền tảng nào khác để trật tự tồn tại. Trong các nền văn hóa tiền văn tự, việc điểm lại danh sách tên của tổ tiên là một hoạt động rất quan trọng, thậm chí đến tận ngày nay cũng vậy, và đó là một hoạt động mà người ta có thể làm với niềm vui sướng. Việc ghi nhớ mang tính thưởng thức bởi vì nó đòi hỏi phải hoàn thành một mục tiêu và do đó mang lại trật tự cho ý thức. Tất cả chúng ta đều biết đến tia hài lòng nho nhỏ vẫn xuất hiện khi ta nhớ ra nơi mình đặt chìa khóa xe, hoặc bất kỳ vật nào khác đang tạm thời thất lạc. Với việc nhớ một danh sách dài các bậc bô lão, quay ngược về hàng chục thế hệ, đặc biệt thú vị ở chỗ nó thỏa mãn nhu cầu tìm một vị trí trong dòng đời đang diễn ra. Việc ai đó gợi nhớ lại tổ tiên của mình sẽ đặt người đó vào vai trò mắt xích trong một dây chuyền bắt đầu từ quá khứ huyền bí và kéo dài đến tương lai không thể đoán định. Mặc dù trong nền văn hóa của chúng ta lịch sử dòng dõi đã đánh mất tầm quan trọng thực tiễn, thì mọi người vẫn thích suy nghĩ và nói về cội nguồn của họ.
Không chỉ cội nguồn là được tổ tiên của chúng ta ủy thác vào bộ nhớ, mà còn có tất cả những sự thật khách quan có liên quan đến khả năng kiểm soát môi trường khác. Danh sách những loại thảo mộc và trái cây ăn được, những lời khuyên về sức khỏe, các quy tắc ứng xử, các mô hình của di sản, luật pháp, kiến thức địa lý, những nguyên tắc sơ đẳng của công nghệ và mọi sự hiểu biết đều được gói gọn trong những câu nói hay câu thơ dễ nhớ. Trước khi in ấn trở thành hoạt động dễ dàng và luôn sẵn có như trong vài trăm năm qua, phần lớn kiến thức của con người đã được cô đọng trong các hình thức tương tự như “bài hát Bảng chữ cái” mà những con rối hiện hát trên các chương trình truyền hình dành cho trẻ em như “Sesame Street”.
Theo Johann Huizinga, nhà sử học văn hóa vĩ đại của Hà Lan, một trong số những tiền thân quan trọng nhất của kiến thức có tính hệ thống là các trò chơi đố. Trong các nền văn hóa cổ xưa nhất, những bô lão trong bộ tộc sẽ thách đấu nhau trong các cuộc thi, trong đó một người diễn xướng một chủ đề chứa đầy những sự ám chỉ bị ẩn đi và người kia phải diễn giải ý nghĩa được mã hóa trong phần diễn xướng đó. Một cuộc thi giữa những chuyên gia giải đố thường là sự kiện trí tuệ mang tính kích thích nhất mà cộng đồng địa phương có thể chứng kiến. Các hình thức của câu đố đã thúc đẩy các quy tắc logic và nội dung của nó được dùng để truyền đạt những kiến thức thực tế mà tổ tiên chúng ta cần để bảo tồn sự sống. Một số câu đố khá đơn giản và dễ dàng, như những giai điệu được hát bởi những người hát rong xứ Wales cổ đại và được dịch bởi Lady Charlotte Guest dưới đây:
Tìm xem, nó là gì:
Thực thể mạnh mẽ có từ trước khi cơn lũ đến,
Không có thịt, không có xương,
Không có mạch, không có máu,
Không có đầu, không có chân…
Có trên cánh đồng, trong rừng rậm
Không có tay, không có chân.
Nó còn trải đi rộng khắp
Như bề mặt trái đất,
Và nó không được sinh ra,
Cũng không nhìn thấy được…
Câu trả lời trong trường hợp này là “cơn gió”.
Những câu đố khác mà các tu sĩ và những người hát rong đã ủy thác vào bộ nhớ thì dài hơn, phức tạp hơn và chứa những mẩu quan trọng của tri thức bí mật được ngụy trang trong những câu thơ tinh xảo. Chẳng hạn, Robert Graves cho rằng những nhà thông thái đầu tiên của Ireland và xứ Wales đã lưu trữ kiến thức của họ trong những bài thơ dễ nhớ. Thông thường họ sử dụng các mật mã phức tạp, như khi tên của các loài cây được đại diện cho các chữ cái và một danh sách các loại cây được đánh vần thành các từ. Các dòng 67–70 của bài thơ Trận chiến của những cái cây, một bài thơ dài, kỳ lạ, được hát bởi những người hát rong xứ Wales cổ xưa:
Những cây trăn (alder) ở tiền tuyến
Bắt đầu cuộc chiến.
Cây liễu và cây thanh lương trà
đã chậm trễ trong việc bày binh bố trận.
Đã mã hóa các chữ cái F (vốn được đại diện bởi cây trăn trong bảng chữ cái druidic huyền bí), S (liễu) và L (thanh lương trà). Theo cách này, một vài người hát rong biết chữ đã có thể hát được một bài hát có vẻ như đang đề cập đến một trận chiến giữa những loài cây trong rừng, nhưng thực sự đã phát ra một thông điệp mà chỉ những người có cùng sự hiểu biết mới có thể diễn giải. Tất nhiên, đáp án của câu đố không phụ thuộc hoàn toàn vào bộ nhớ; mà kiến thức chuyên ngành và rất nhiều trí tưởng tượng cùng khả năng giải quyết vấn đề cũng được đòi hỏi. Nhưng không có trí nhớ tốt, người ta không thể là một bậc thầy giải đố, cũng không thể thành thạo bất kỳ kỹ năng tinh thần nào khác.
Theo những ghi chép về trí thông minh nhân loại, món quà tinh thần được đánh giá cao nhất là một ký ức được nuôi dưỡng tốt. Ông tôi ở tuổi bảy mươi vẫn có thể nhớ lại những đoạn thơ trong ba ngàn dòng của sử thi Iliad bằng tiếng Hy Lạp mà ông đã phải học thuộc lòng để tốt nghiệp trung học. Bất cứ khi nào ông nhớ lại chúng, vẻ mặt ông đều ánh lên những nét tự hào, phóng tầm mắt xa xăm về phía chân trời. Với mỗi nhịp thơ được trình bày, tâm trí ông lại quay về những năm tuổi trẻ. Ngôn từ gợi lại trong ông những trải nghiệm mà ông từng có khi lần đầu học tác phẩm, nhớ lại những vần thơ này, đối với ông là một kiểu du hành thời gian. Đối với những người trong thế hệ của ông, kiến thức vẫn đồng nghĩa với việc ghi nhớ. Chỉ trong thế kỷ vừa qua, khi các dạng lưu trữ bằng văn bản đã trở nên ít tốn kém và dễ dàng hơn, tầm quan trọng của việc ghi nhớ đã giảm đáng kể. Ngày nay, một trí nhớ tốt được coi là vô dụng ngoại trừ việc biểu diễn trên một số chương trình truyền hình giải trí hoặc để chơi trò Trivial Pursuit.
Nhưng đối với một người không có gì để nhớ, cuộc sống có thể trở nên đặc biệt nghèo nàn. Khả năng này đã hoàn toàn bị phớt lờ bởi các nhà cải cách giáo dục đầu thế kỷ này, những người được trang bị bởi những kết quả nghiên cứu, đã chứng minh rằng học vẹt không phải là một cách hiệu quả để lưu trữ và thu thập thông tin. Bằng kết quả từ nỗ lực của họ, việc học vẹt đã bị loại khỏi các trường học. Các nhà cải cách này hẳn sẽ được chứng minh là đúng nếu như mục đích của ghi nhớ chỉ đơn giản là để giải quyết các vấn đề thực tế. Nhưng nếu sự kiểm soát của ý thức được đánh giá ít nhất là cũng quan trọng như khả năng hoàn thành công việc, thì việc học thuộc lòng các mẫu thông tin phức tạp hoàn toàn không phải là một sự lãng phí nỗ lực. Một tâm trí với một vài nội dung ổn định sẽ phong phú hơn nhiều so với một tâm trí không có gì. Sẽ là một sai lầm khi cho rằng sáng tạo và học vẹt là không tương hợp với nhau. Một số nhà khoa học đầu tiên, chẳng hạn, đã được biết đến với việc thuộc lòng âm nhạc, thơ ca hoặc thông tin lịch sử khái quát.
Một người có thể nhớ những câu chuyện, bài thơ, lời bài hát, số liệu thống kê của môn bóng chày, các công thức hóa học, các thuật toán học, những cột mốc lịch sử, các đoạn trong Kinh thánh và những trích dẫn thông thái, sẽ có nhiều lợi thế so với người không trau dồi kỹ năng như vậy. Ý thức của một cá nhân như vậy là độc lập khỏi trật tự có thể được hoặc không được môi trường cung cấp. Họ luôn có thể tự giải trí và tìm thấy ý nghĩa từ những gì được chứa đựng trong tâm trí mình. Trong khi những người khác cần sự kích thích bên ngoài, như truyền hình, đọc sách, trò chuyện, hoặc chất kích thích để giữ cho tâm trí của họ khỏi sự hỗn loạn, thì người có trí nhớ đã được dự trữ các mẫu thông tin sẽ có thể tự chủ và độc lập. Ngoài ra, một người như vậy cũng là một người bạn đồng hành đặc biệt đáng trân trọng, bởi vì họ có thể chia sẻ thông tin trong tâm trí của mình và do đó giúp mang đến trật tự cho ý thức của những người mà họ tương tác.
Làm thế nào người ta có thể tìm thấy nhiều giá trị hơn từ trí nhớ? Cách tự nhiên nhất để bắt đầu là quyết định chủ đề nào mà mình thực sự quan tâm đến, – thơ ca, ẩm thực, lịch sử Nội chiến hay bóng chày – và sau đó bắt đầu chú ý đến các sự kiện và nhân vật quan trọng trong lĩnh vực đã chọn. Với một sự nắm bắt tốt về chủ đề sẽ dẫn đến nhận thức về những gì đáng ghi nhớ và những gì không. Điều quan trọng cần nhận ra là bạn không nên cảm thấy mình phải tiếp thu một chuỗi sự thật khách quan, rằng có một danh sách đúng đắn mà bạn phải ghi nhớ. Nếu bạn quyết định những gì bạn muốn có trong bộ nhớ của mình, thông tin sẽ nằm trong tầm kiểm soát của bạn và toàn bộ quá trình học thuộc lòng sẽ trở thành một nhiệm vụ dễ chịu, thay vì một việc vặt vãnh được áp đặt từ bên ngoài. Một người tìm hiểu cuộc Nội chiến không cần phải cảm thấy bị ép buộc phải biết chuỗi thời gian của tất cả các cuộc giao chiến lớn; ví dụ, nếu anh ta quan tâm đến vai trò của pháo binh thì chỉ những trận chiến mà đại bác đóng vai trò quan trọng mới cần sự chuyên tâm của anh. Một vài người còn mang theo bên mình những ghi chép được tuyển chọn từ những bài thơ, những trích dẫn được viết ra giấy, để có thể lướt qua mỗi khi cảm thấy buồn chán hoặc nản lòng. Tuyệt vời làm sao cái cảm giác của sự kiểm soát được mang lại khi ta biết rằng những sự thật hay những ca từ yêu thích luôn ở trong tầm tay. Tuy nhiên, một khi chúng được lưu trữ trong ký ức, cảm giác về quyền sở hữu này – hoặc tốt hơn, về sự kết nối với nội dung được gợi nhớ – thậm chí trở nên mãnh liệt hơn.
Tất nhiên, luôn có một mối nguy là người nắm vững một miền thông tin nào đó sẽ sử dụng nó để trở thành một gã phiền toái kiêu ngạo. Chúng ta đều quen biết những người không thể cưỡng lại việc phô trương trí nhớ của họ. Nhưng điều này thường xảy ra khi ai đó ghi nhớ chỉ để gây ấn tượng với người khác. Ít có khả năng ai đó trở thành một kẻ phiền toái khi họ thực sự có động lực – với sự quan tâm thành thật đến đối tượng, và một mong muốn kiểm soát ý thức thay vì kiểm soát môi trường.
CÁC QUY TẮC CỦA NHỮNG TRÒ CHƠI TÂM TRÍ
Bộ nhớ không phải là công cụ duy nhất được đòi hỏi để định hình những gì diễn ra trong tâm trí. Việc ghi nhớ các sự kiện khách quan sẽ là vô ích trừ khi chúng phù hợp với những khuôn mẫu nào đó, hay người ta tìm thấy sự giống nhau và tính quy củ giữa chúng. Hệ thống trật tự đơn giản nhất là đặt tên cho mọi thứ; những từ ngữ chúng ta phát minh ra đã biến đổi các sự kiện riêng rẽ thành những phạm trù phổ quát. Sức mạnh này của từ ngữ là rất lớn. Trong Sáng Thế Ký 1, Thiên Chúa đặt tên ngày, đêm, bầu trời, mặt đất, biển và tất cả các sinh vật sống ngay sau khi Ngài tạo ra chúng, qua đó hoàn thành quá trình tạo tác. Tin Mừng Gioan bắt đầu bằng: “Trước khi Thế giới được tạo ra, Ngôn lời đã tồn tại”; và Heraclitus mở đầu tác phẩm gần như đã tuyệt tích của mình: “Ngôn lời này (Logos) là có từ muôn đời, ấy vậy mà trước và sau khi nghe thấy nó lần đầu, con người vẫn hiểu nó rất ít…”. Tất cả các tham chiếu này cho thấy tầm quan trọng của từ ngữ trong việc kiểm soát trải nghiệm. Các khối kết cấu của hầu hết các hệ thống biểu tượng, từ ngữ làm cho suy nghĩ trừu tượng có thể diễn ra và làm tăng khả năng của tâm trí trong việc lưu trữ các kích thích mà nó đã dự phần. Không có hệ thống để sắp xếp thông tin theo trật tự, ngay cả bộ nhớ sáng sủa nhất cũng sẽ nhận thấy ý thức nằm trong trạng thái hỗn loạn.
Sau việc đặt tên, là đến con số và các khái niệm, và sau đó là các quy tắc căn bản để kết hợp chúng theo những phương thức có thể dự đoán được. Thế kỷ VI trước Công nguyên, Pythagoras và các học trò của mình dấn thân vào nhiệm vụ tạo ra trật tự phổ quát, đã cố gắng tìm ra các định luật số học chung để liên kết thiên văn học, hình học, âm nhạc và số học. Không có gì đáng ngạc nhiên, công việc của họ rất khó phân biệt với tôn giáo, vì nó đã cố gắng đạt đến những mục tiêu tương tự: tìm cách thể hiện cấu trúc của vũ trụ. Hai ngàn năm sau, Kepler, và sau đó là Newton, vẫn ở cùng trên hành trình tìm kiếm đó.
Tư duy lý thuyết chưa bao giờ hoàn toàn đánh mất những đặc tính về hình tượng và đánh đố của những câu đố cổ xưa. Ví dụ Archytas, nhà triết học và tổng tư lệnh của thành phố Tarentum (nay thuộc miền nam nước Ý) vào thế kỷ IV trước Công nguyên đã chứng minh rằng vũ trụ là vô hạn, bằng cách tự hỏi: “Giả sử rằng tôi đến được bên ngoài giới hạn của vũ trụ. Nếu bấy giờ tôi ném ra một cây gậy, tôi sẽ nhận thấy điều gì?”. Archytas cho rằng cây gậy đó phải phóng ra ngoài không gian. Nhưng trong trường hợp đó, có không gian nằm ngoài giới hạn của vũ trụ, điều đó có nghĩa là vũ trụ không có giới hạn. Nếu lý luận của Archytas có vẻ ban sơ, thì sẽ rất hữu ích khi nhớ lại rằng các thí nghiệm trí tuệ mà Einstein đã sử dụng để làm rõ cách thức thuyết tương đối hoạt động, liên quan đến ghi nhận thời gian từ các đoàn tàu di chuyển ở những tốc độ khác nhau, cơ bản là không khác biệt.
Bên cạnh những câu chuyện và câu đố, tất cả các nền văn minh dần dần phát triển các quy tắc có hệ thống hơn để kết hợp thông tin, dưới dạng trình bày thuộc hình học và chứng minh hình thức. Với sự trợ giúp của các công thức như vậy, người ta có thể mô tả sự chuyển động của các ngôi sao, dự đoán chính xác các chu kỳ từng mùa và vẽ bản đồ trái đất một cách chính xác. Tri thức trừu tượng và cuối cùng là những gì mà chúng ta biết đến như khoa học thực nghiệm, đã phát triển từ những quy tắc này.
Điều quan trọng phải nhấn mạnh ở đây là một sự thật mà tất cả thường không nhìn thấy: triết học và khoa học được phát minh và phát triển bởi vì suy nghĩ là quá trình thú vị. Nếu các nhà tư tưởng không thích cảm giác trật tự được tạo ra trong ý thức khi sử dụng các phương pháp suy luận và số học, thì không chắc là giờ đây chúng ta có thể có các môn toán học và vật lý học.
Tuy nhiên, tuyên bố này hoàn toàn đối lập với hầu hết các lý thuyết phát triển văn hóa hiện nay. Các nhà sử học thấm nhuần các biến thể của những giáo huấn thuộc chủ nghĩa tất định vật chất cho rằng tư tưởng được hình thành bởi những gì con người buộc phải làm để kiếm sống. Chẳng hạn, sự phát triển của số học và hình học được giải thích hầu như chỉ dựa trên nhu cầu cần có kiến thức thiên văn chính xác và kỹ thuật thủy lợi không thể thiếu trong việc duy trì các nền văn minh thủy lực lớn, nằm dọc theo dòng sông lớn như sông Tigris, Euphrates, sông Ấn, Trường Giang và sông Nile. Đối với các nhà sử học này, mọi bước sáng tạo đều được hiểu là sản phẩm của các ngoại lực, hoặc là từ chiến tranh, áp lực nhân khẩu, tham vọng lãnh thổ, điều kiện thị trường, nhu cầu công nghệ, hoặc là đấu tranh cho quyền thống trị giai cấp.
Ngoại lực rất quan trọng trong việc xác định những ý tưởng mới nào sẽ được lựa chọn giữa nhiều ý tưởng sẵn có; nhưng chúng không thể giải thích cho sản phẩm được tạo ra từ đó. Chẳng hạn, hoàn toàn đúng là sự phát triển và ứng dụng kiến thức về năng lượng nguyên tử đã được thúc đẩy rất mạnh bởi cuộc chiến tranh một mất một còn giữa một bên là nước Đức và một bên là Anh và Hoa Kỳ. Nhưng thực tế, khoa học hình thành nên cơ sở của phân hạch hạt nhân liên quan rất ít tới chiến tranh; nó có được thông qua kiến thức được đề ra trong những hoàn cảnh ôn hòa hơn nhiều – chẳng hạn, trong cuộc trao đổi các ý tưởng một cách thân thiện giữa các nhà vật lý châu Âu suốt nhiều năm tại vườn bia rồi chuyển giao cho Niels Bohr và các nhà khoa học đồng sự của mình qua một nhà máy bia ở Copenhagen.
Những nhà tư tưởng vĩ đại luôn được thúc đẩy bởi sự thưởng thức của việc suy nghĩ hơn là những phần thưởng vật chất có thể đạt được qua quá trình đó. Democritus, một trong những bộ óc độc đáo nhất thời cổ đại, được những người đồng hương của ông ở thành phố Abdera đặc biệt kính trọng. Tuy nhiên, họ không hiểu gì về Democritus. Nhìn ông ngồi đắm chìm trong suy nghĩ hàng ngày, họ cho rằng ông hành động không tự nhiên và hẳn là đang bị bệnh. Vì vậy, họ đã cho mời Hippocrates, người thầy thuốc vĩ đại, đến để xem vị hiền nhân của họ đã mắc bệnh gì. Sau khi Hippocrates, người không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn rất khôn ngoan, thảo luận với Democritus về những điều phi lý của cuộc sống, ông trấn an người dân thị trấn rằng nếu có điều gì đang xảy ra với triết gia của họ thì đó chính là sự lành mạnh hết sức. Ông không mất trí; ông chỉ lạc vào dòng chảy suy nghĩ.
Những mảnh còn sót lại từ các trước tác của Democritus đã minh họa cho việc ông nhận thấy việc thực hành suy nghĩ có tính tưởng thưởng như thế nào: “Thật thần thánh khi ngẫm nghĩ về một điều gì đó đẹp đẽ, và về điều gì đó mới mẻ”; “Hạnh phúc không nằm ở sức mạnh hay tiền bạc; nó nằm ở sự đúng đắn và tính đa diện”; “Tôi thà khám phá được một căn nguyên đích thực còn hơn giành được vương quốc Ba Tư”. Không ngạc nhiên, một số người hiểu biết hơn cùng thời với ông đã kết luận rằng Democritus có một tính khí vui vẻ và nói rằng ông khơi gợi lên “sự Vui vẻ và Tự tin, đó là một tâm trí không sợ hãi, là điều tốt đẹp ở mức cao nhất”. Nói cách khác, ông tận hưởng được cuộc sống bởi vì ông đã học được cách kiểm soát ý thức của mình.
Democritus không phải là người đầu tiên và cũng không phải là nhà tư tưởng cuối cùng bị lạc vào dòng chảy tâm trí. Các nhà triết học thường bị coi là đãng trí, điều đó tất nhiên không có nghĩa là tâm trí của họ đã bị lạc lối, mà là họ đã tạm thời thoát ra khỏi thực tế hàng ngày để sống trong các hình thái tượng trưng của những miền tri thức mà họ yêu thích. Giả sử, khi Kant đặt đồng hồ của mình vào nồi nước sôi trong khi tay cầm một quả trứng để canh thời gian luộc trứng, thì tất cả năng lượng tinh thần của ông hẳn đã được đầu tư để đưa những suy nghĩ trừu tượng vào trạng thái hài hòa, chẳng để lại chút sự chú ý nào rảnh rỗi để đương đầu với những đòi hỏi bất ngờ từ thế giới vật chất.
Trọng tâm là chơi đùa với những ý tưởng là việc cực kỳ vui vẻ. Không chỉ triết học mà sự xuất hiện của những ý tưởng khoa học mới đều được thúc đẩy bởi sự thưởng thức mà người ta có được thông qua việc tạo ra một cách mới để mô tả thực tế. Các công cụ giúp cho dòng chảy suy nghĩ trở thành khả dĩ vốn là tài sản chung, bao gồm kiến thức được lưu trữ trong những cuốn sách sẵn có tại các trường học và thư viện. Một người đã quen thuộc với các quy ước của thơ ca hoặc các quy tắc toán học, có thể trưởng thành độc lập khỏi sự kích thích bên ngoài. Người đó có thể phát ra những chuỗi tư tưởng trật tự nhiều không đếm xuể, bất chấp điều gì xảy ra ở thực tế bên ngoài. Khi một người đã học được một hệ thống biểu tượng đủ thành thạo để sử dụng nó, người đó đã thiết lập được một thế giới “xách tay”, khép kín trong tâm trí.
Đôi khi quyền kiểm soát được một hệ thống biểu tượng được nội tại hóa như vậy có thể cứu sống một cuộc đời. Chẳng hạn, người ta đã tuyên bố rằng lý do mà nước Iceland có nhiều nhà thơ hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới là bởi việc ngâm những bản trường thi đã trở thành một cách để người Iceland giữ ý thức của họ được trật tự khi sống ở một môi trường cực kỳ thù địch với sự tồn tại của con người. Trong nhiều thế kỷ, người Iceland không chỉ bảo tồn thơ ca trong trí nhớ mà còn thêm những câu thơ mới vào những sử thi biên niên ký, ghi lại những việc làm của tổ tiên họ. Bị cô lập trong đêm băng giá, họ thường quần tụ quanh ngọn lửa, ngâm nga những bài thơ của mình dưới những túp lều bấp bênh, trong khi bên ngoài những cơn gió của mùa đông bất tận ở cực Bắc không ngừng gào rú. Nếu người Iceland trải qua những đêm trường đó trong im lặng, lắng nghe những cơn gió thách thức bên ngoài, tâm trí họ sẽ sớm bị lấp đầy bởi sự sợ hãi và tuyệt vọng. Thay vào đó, bằng cách làm chủ nhịp điệu có trật tự của vận luật và sự bắt vần, bao bọc những sự kiện trong đời họ bằng những hình ảnh ngôn từ, họ đã thành công trong việc kiểm soát trải nghiệm của mình. Đối mặt với những cơn bão tuyết hỗn loạn, họ đã tạo ra những bài hát với hình thức và ý nghĩa. Trong chừng mực nào thì các trường thi này còn giúp người Iceland chịu đựng được sự khắc nghiệt? Họ có sống sót được mà không có chúng hay không? Không có cách nào để trả lời những câu hỏi này một cách chắc chắn. Nhưng nào có ai dám thử nghiệm điều đó chứ?
Những tình huống tương tự cũng diễn ra khi các cá nhân đột nhiên bị đẩy khỏi nền văn minh và thấy mình rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt như chúng ta đã mô tả ở trên, chẳng hạn như trại tập trung hoặc các cuộc thám hiểm địa cực. Bất cứ khi nào thế giới bên ngoài không còn chút khoan dung, một hệ thống biểu tượng bên trong có thể trở thành sự cứu rỗi. Bất cứ ai sở hữu các quy tắc “xách tay” cho tâm trí đều có một lợi thế lớn. Trong những điều kiện cực kỳ thiếu thốn, các nhà thơ, các nhà toán học, nhạc sĩ, nhà sử học và những người thông hiểu Kinh thánh nổi bật lên như những hòn đảo của sự tỉnh táo bao quanh bởi những con sóng hỗn loạn. Ở một mức độ nhất định, những người nông dân thông hiểu đời sống ruộng đồng hoặc những thợ rừng thông hiểu về rừng cũng có một hệ thống hỗ trợ tương tự, nhưng vì kiến thức của họ ít được mã hóa trừu tượng, họ cần phải tương tác nhiều hơn với môi trường thực tế để đạt được sự kiểm soát.
Chúng ta hãy hy vọng rằng không ai bị buộc phải triệu hồi các kỹ năng biểu tượng để sống sót được trong các trại tập trung hoặc những thách thức ở Bắc cực. Nhưng có một bộ quy tắc “xách tay” mà tâm trí có thể sử dụng sẽ đem lại lợi ích tuyệt vời ngay cả trong cuộc sống bình thường. Những người không có một hệ thống biểu tượng nội tại hóa có thể dễ dàng trở thành tù nhân của truyền thông. Họ dễ dàng bị thao túng bởi những kẻ mị dân, bị thu phục bởi những người trong ngành giải trí và bị khai thác bởi bất cứ ai đang muốn bán thứ gì đó. Nếu chúng ta đã trở nên phụ thuộc vào truyền hình, chất kích thích và vào những lời kêu gọi trơn tru đến với sự cứu rỗi của chính trị hay tôn giáo, đó là bởi vì chúng ta có quá ít thứ có thể trông cậy, quá ít quy tắc nội tại giúp bảo vệ tâm trí khỏi bị chiếm đoạt bởi những kẻ tuyên bố họ có câu trả lời. Không có khả năng cung cấp thông tin của riêng mình, tâm trí sẽ dạt trôi vào cõi bừa bãi. Ngụ bên trong mỗi người là quyền lực quyết định liệu trật tự của tâm trí sẽ được phục hồi từ bên ngoài, theo những cách thức mà chúng ta hoàn toàn không kiểm soát được, hay trật tự sẽ là kết quả của một mô thức nội tại vốn được phát triển mang tính hữu cơ từ những kỹ năng và tri thức của chúng ta.
SỰ NÔ GIỠN CỦA NGÔN TỪ
Làm thế nào để một người bắt đầu làm chủ một hệ thống biểu tượng? Tất nhiên, việc đó phụ thuộc vào lĩnh vực tư tưởng mà người đó thích khám phá. Chúng ta đã thấy rằng những bộ quy tắc cổ xưa nhất và có lẽ cơ bản nhất chi phối việc sử dụng từ ngữ. Và ngày nay, từ ngữ vẫn mang đến nhiều cơ hội nhập vào trạng thái dòng chảy ở nhiều mức độ phức tạp khác nhau. Một ví dụ hơi tầm thường nhưng vẫn sáng tỏ có thể nhắc đến là trò giải ô chữ. Có rất nhiều lợi ích trong việc ủng hộ trò tiêu khiển phổ biến này, mà khi ở dạng thức tốt nhất của mình, nó rất giống với những cuộc thi giải câu đố cổ xưa. Nó không tốn kém và mang tính di động, những thách thức của nó có thể được tinh chỉnh để cả người chưa có kinh nghiệm lẫn các chuyên gia đều có thể thưởng thức và đáp án của nó sản sinh ra một cảm giác trật tự dễ chịu mang lại cho người ta cảm giác thỏa mãn của thành quả. Nó cung cấp cơ hội để trải nghiệm một trạng thái dòng chảy êm dịu cho những ai bị kẹt trong phòng chờ sân bay, ngồi trên những chuyến tàu, hoặc cho những ai đơn giản là chỉ muốn giết thì giờ trong buổi sáng chủ nhật. Nhưng nếu một người bị giới hạn trong việc chỉ đơn giản là giải ô chữ, người đó vẫn phụ thuộc vào một kích thích bên ngoài: sự thử thách được cung cấp bởi một chuyên gia của tờ phụ trương Chủ nhật hay tạp chí câu đố. Để thực sự tự chủ trong lĩnh vực này, một lựa chọn tốt hơn là tự tạo ra các ô chữ của riêng mình. Khi đó, không còn cần một mô hình được lên khuôn từ bên ngoài; người đó hoàn toàn tự do. Và sự thưởng thức khi đó còn sâu sắc hơn. Không khó để học được cách viết ô chữ; tôi có biết một đứa trẻ tám tuổi, sau khi thử giải vài câu đố Chủ nhật trên tờ New York Times, đã bắt đầu viết những ô chữ khá ý nghĩa của riêng mình. Tất nhiên, như với bất kỳ kỹ năng đáng để phát triển nào khác, việc này cũng đòi hỏi người ta phải đầu tư năng lượng tinh thần vào nó ngay từ đầu.
Một cách sử dụng từ ngữ giàu tiềm năng hơn để cải thiện cuộc sống của chúng ta là nghệ thuật trò chuyện vốn đã mai một. Những hệ tư tưởng của chủ nghĩa vị lợi trong hai thế kỷ qua đã ngầm thuyết phục chúng ta rằng mục đích chính yếu của việc nói chuyện là truyền đạt thông tin hữu ích. Bởi thế mà giờ đây chúng ta coi trọng giao tiếp ngắn gọn, truyền đạt kiến thức thực tế và coi bất cứ điều gì khác là sự phù phiếm làm lãng phí thời gian. Kết quả là, mọi người đã gần như không thể nói chuyện với nhau ngoài phạm vi các chủ đề hạn hẹp của những mối bận tâm nhất thời và sự chuyên môn. Ít ai trong chúng ta có thể hiểu được nhiệt huyết của vua Hồi Ali Ben Ali, người đã viết: “Một cuộc trò chuyện tinh tế, đó là Vườn Địa đàng”. Đây là điều đáng tiếc, bởi hoàn toàn có thể chứng minh được rằng chức năng chính của trò chuyện không phải nhằm có được thành quả mà để cải thiện chất lượng trải nghiệm.
Peter Berger và Thomas Luckmann, các nhà xã hội học về hiện tượng có ảnh hưởng, đã viết rằng ý thức của chúng ta về vũ trụ được gắn kết với nhau bằng những cuộc trò chuyện. Khi tôi nói với một người quen mà tôi gặp vào buổi sáng, “Trời đẹp quá”, tôi không chủ ý truyền tải thông tin khí tượng, – vốn sẽ là thừa thãi, vì anh ấy cũng có dữ liệu giống như tôi – mà là để đạt được nhiều dạng mục tiêu khác nữa. Chẳng hạn, bằng cách trò chuyện với anh, tôi công nhận sự tồn tại của anh ấy và bày tỏ thiện ý của mình. Thứ hai, tôi tái xác nhận một trong những quy tắc cơ bản của sự tương tác trong văn hóa của chúng ta, vốn cho rằng nói về thời tiết là một cách an toàn để thiết lập giao tiếp giữa mọi người. Cuối cùng, bằng cách nhấn mạnh rằng thời tiết tốt, tôi ngụ ý rằng việc chia sẻ giá trị “tốt đẹp” đó là một thuộc tính đáng quý. Vì vậy, nhận xét tưởng chừng bâng quơ ấy trở thành thông điệp giúp tâm trí người quen kia giữ được trật tự thông thường của nó. Câu trả lời của anh ấy, “Vâng, trời đẹp quá phải không?” sẽ giúp tôi giữ trật tự trong tâm trí mình. Không có sự tái khẳng định liên tục những điều hiển nhiên như vậy, Berger và Luckmann tuyên bố, người ta sẽ sớm bắt đầu nghi ngờ về thực tại của thế giới họ đang sống. Những lời nói xã giao mà chúng ta trao đổi với nhau, những chuyện trò vụn vặt từ radio và tivi, đã trấn an chúng ta rằng mọi thứ đều ổn, rằng các điều kiện thông thường của sự tồn tại đang thắng thế.
Điều đáng tiếc là rất nhiều cuộc trò chuyện kết thúc ngay tại đó. Song, khi các từ ngữ được lựa chọn tốt, được sắp xếp tốt, chúng tạo ra những trải nghiệm hài lòng cho người nghe. Không phải chỉ riêng bởi những lý do thực dụng mà sự phong phú của kho từ vựng và sự lưu loát của lời nói là một trong những phẩm chất quan trọng nhất để là một doanh nhân thành công. Giỏi ăn nói sẽ làm phong phú mọi tương tác và đó là một kỹ năng mà ai cũng có thể học được.
Một cách để dạy trẻ về tiềm năng của ngôn từ là bắt đầu cho chúng tiếp xúc với trò chơi đố chữ từ sớm. Sự chơi chữ và nghĩa kép có thể là hình thức thấp nhất của sự hài hước đối với những người lớn đã sành sỏi, nhưng chúng cung cấp cho trẻ em một nền tảng đào tạo tốt trong việc làm chủ ngôn ngữ. Tất cả những gì người lớn phải làm là tập trung chú ý trong cuộc trò chuyện với một đứa trẻ và ngay khi cơ hội xuất hiện, – bất cứ khi nào một từ hoặc một sự diễn đạt ngây thơ có thể được diễn giải theo một cách khác – thì người đó lập tức chuyển trạng thái và giả vờ hiểu từ đó theo nghĩa khác.
Lần đầu tiên đứa trẻ nhận ra rằng sự diễn đạt “bữa ăn tối có mặt Bà” có thể nói đến một người khách hoặc là một món ăn, nó sẽ thấy hơi khó hiểu, tựa lúc mới nghe một cụm từ như “cổ họng khô rát”. Trong thực tế, việc phá vỡ những kỳ vọng có trật tự về ý nghĩa của từ ngữ có thể gây ra chút hoang mang lúc đầu, nhưng ngay lập tức trẻ em sẽ bắt kịp và phản ứng tốt giống như cách chúng hiểu vấn đề, học cách chuyển hướng cuộc trò chuyện vào trạng thái quanh co. Làm như vậy, chúng học cách thưởng thức việc kiểm soát từ ngữ; khi trưởng thành, chúng có thể giúp hồi sinh nghệ thuật trò chuyện đã mai một.
Cách sử dụng sáng tạo chính yếu của ngôn ngữ, đã được đề cập nhiều lần ở trên, là thơ ca. Bởi vì thơ ca cho phép tâm trí lưu giữ những trải nghiệm ở dạng cô đọng và đã biến đổi, nên nó rất lý tưởng cho việc định hình ý thức. Việc đọc thơ mỗi đêm có ý nghĩa với tâm trí tương tự như việc tập thể dục có ý nghĩa với cơ thể vậy. Bạn không nhất thiết phải đọc những tác phẩm “vĩ đại”, ít nhất là không cần ở giai đoạn đầu. Và không cần thiết phải đọc toàn bộ bài thơ. Điều quan trọng là chọn ít nhất một dòng, hoặc một đoạn, rồi bắt đầu ngâm nga. Đôi khi chỉ một từ là đủ để mở một cửa sổ đến với cái nhìn mới về thế giới, đưa tâm trí đi trên một hành trình bên trong.
Và một lần nữa, không có lý do gì để chỉ dừng lại ở việc làm một người tiêu thụ thụ động. Mọi người đều có thể học, với một chút kỷ luật và sự kiên trì, để định đoạt trải nghiệm cá nhân trong thơ ca. Như Kenneth Koch, nhà thơ và nhà cải cách xã hội ở New York, đã chỉ ra, ngay cả những đứa trẻ thiếu thốn điều kiện và phụ nữ cao tuổi ít học trong nhà dưỡng lão cũng có thể viết những bài thơ cảm động tuyệt hay nếu họ được đào tạo tối thiểu. Không có nghi ngờ gì việc làm chủ kỹ năng này sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Không những họ rất thưởng thức trải nghiệm, mà trong quá trình đó, họ cũng đã gia tăng đáng kể lòng tự trọng của mình.
Viết văn xuôi cung cấp những lợi ích tương tự và mặc dù nó thiếu trật tự rõ ràng được áp đặt bởi nhịp và vần, nó lại là một kỹ năng dễ tiếp cận hơn. (Tuy nhiên, để viết một bài văn xuôi vĩ đại có lẽ cũng khó như viết những bài thơ tuyệt phẩm).
Trong thế giới ngày nay, chúng ta đã bỏ qua thói quen viết lách vì rất nhiều phương tiện giao tiếp khác đã thế chỗ. Điện thoại và máy ghi âm, máy tính và máy fax hiệu quả hơn trong việc truyền tải tin tức. Nếu mục đích quan trọng duy nhất của viết lách là để truyền tải thông tin, thì nó sẽ xứng đáng trở thành lỗi thời. Nhưng mấu chốt của việc viết lách là để tạo ra thông tin, chứ không chỉ đơn giản là truyền nó đi. Trong quá khứ, những người có học thức đã sử dụng các tạp chí và thư từ cá nhân để đưa kinh nghiệm của họ vào ngôn từ, điều này cho phép họ suy ngẫm về những gì xảy ra trong ngày. Các bức thư chi tiết phi thường mà nhiều người Anh dưới triều đại Victoria đã viết là một ví dụ về cách mọi người tạo ra các mô hình trật tự từ các sự kiện phần lớn là ngẫu nhiên xuất hiện trong ý thức của họ. Kiểu tài liệu chúng ta viết trong nhật ký và thư không tồn tại trước khi nó được viết ra. Chính quá trình tăng trưởng tự thân của tư duy được bao hàm trong việc viết lách ngay từ đầu đã cho phép các ý tưởng xuất hiện.
Cách đây không lâu, việc là một nhà thơ hoặc nhà viết tiểu luận nghiệp dư là hoàn toàn có thể chấp nhận. Ngày nay, nếu người ta không kiếm được một số tiền (dù rất ít) từ việc viết lách, thì việc đó được coi là lãng phí thời gian. Một người ngoài hai mươi tuổi theo đuổi nghiệp thơ ca sẽ bị coi là nỗi xấu hổ rành rành, trừ khi anh ta kiếm được tiền từ việc đó. Và trừ khi đó là một tài năng lớn, bằng không sẽ thật vô ích khi hành nghề viết lách với hy vọng đạt được lợi nhuận hoặc danh tiếng lớn. Nhưng viết lách không bao giờ là việc lãng phí bởi những lý do nội tại. Trước hết, việc viết cho tâm trí một phương tiện biểu đạt có tính kỷ luật. Nó cho phép người ta ghi lưu giữ các sự kiện và trải nghiệm để họ có thể dễ dàng gợi nhớ và làm sống lại ở tương lai. Đó là một cách để phân tích và thấu hiểu những trải nghiệm, một sự tự giao tiếp mang lại trật tự cho người viết.
Gần đây, nhiều người đã bình luận về thực tế rằng các nhà thơ và nhà viết kịch là một nhóm người thể hiện các triệu chứng trầm cảm nghiêm trọng bất thường và các rối loạn cảm xúc khác. Có lẽ một lý do khiến họ trở thành nhà văn toàn thời gian là do ý thức của họ bị bao vây bởi entropy ở một mức độ bất thường; viết lách trở thành một liệu pháp để định hình một vài trật tự giữa sự hỗn độn của cảm xúc. Có khả năng rằng cách duy nhất để các cây viết có thể trải nghiệm trạng thái dòng chảy là tạo ra một thế giới ngôn từ, nơi mà họ có thể hành động với sự chối bỏ, xóa khỏi tâm trí sự tồn tại của một thực tại rắc rối. Tuy nhiên, giống như bất kỳ hoạt động dòng chảy nào khác, khi việc viết trở thành sự nghiện ngập thì nó trở nên nguy hiểm: nó buộc người viết phải dấn thân vào một phạm vi hạn chế của trải nghiệm và tịch thu các lựa chọn để xử lý các sự kiện khác. Nhưng khi viết được sử dụng để kiểm soát trải nghiệm mà không để nó kiểm soát tâm trí, thì nó là một công cụ mang đến phần thưởng vô cùng tinh tế và phong phú.
NỮ THẦN CLIO THIỆN CHÍ: DÒNG CHẢY CỦA SỬ HỌC
Trong khi Ký ức là mẹ đẻ của văn hóa, thì Clio, “Người ca tụng”, là con gái lớn của người. Trong thần thoại Hy Lạp, nàng là người bảo trợ của lịch sử, chịu trách nhiệm duy trì các ghi nhận có trật tự về các sự kiện trong quá khứ. Mặc dù lịch sử thiếu các quy tắc rõ ràng đã làm cho các hoạt động tinh thần khác như logic, thơ ca hay toán học trở nên thú vị, nhưng nó có cấu trúc rõ ràng của riêng mình, được thiết lập bởi chuỗi các sự kiện không thể đảo ngược trong dòng thời gian. Quan sát, ghi lại và lưu giữ ký ức về cả những sự kiện lớn và nhỏ của cuộc sống là một trong những cách lâu đời nhất và thỏa mãn nhất để mang lại trật tự cho ý thức.
Theo một nghĩa nào đó, mỗi cá nhân là một nhà sử học về sự tồn tại cá nhân của chính mình. Bởi do sức mạnh cảm xúc của chúng ta mà ký ức về thời thơ ấu trở thành yếu tố quyết định trong việc xác định kiểu người trưởng thành mà chúng ta trở thành cũng như cách tâm trí chúng ta hoạt động. Phân tâm học phần lớn là một nỗ lực nhằm mang lại trật tự cho lịch sử bị cắt xén của mỗi người về thời thơ ấu của họ. Nhiệm vụ hiểu được ý nghĩa của quá khứ này một lần nữa trở nên quan trọng trong tuổi già. Erik Erikson đã cam đoan rằng giai đoạn sau cùng của vòng đời con người phải bao gồm nhiệm vụ đạt được sự “hợp nhất”, hay là tập hợp những gì người đó đã hoàn thành và chưa hoàn thành trong đời mình trở thành một câu chuyện có ý nghĩa, có thể được tuyên bố là của riêng mình. “Lịch sử”, Thomas Carlyle đã viết, “là tinh chất của vô số tiểu sử”.
Hồi tưởng quá khứ không chỉ là công cụ trong việc tạo ra và giữ gìn bản sắc cá nhân, mà còn có thể là một quá trình mang nhiều tính thưởng thức. Mọi người ghi nhật ký, lưu ảnh chụp, làm các dạng trình chiếu và phim gia đình và thu thập quà lưu niệm và kỷ vật rồi lưu trữ trong nhà của họ để xây dựng một bảo tàng về cuộc sống gia đình, dù một người khách ghé thăm nhà hẳn chẳng nhận ra được những liên hệ mang tính lịch sử của những món đồ này. Người khách có thể không biết rằng bức tranh trên tường phòng khách rất có ý nghĩa bởi vì nó được chủ nhân mua trong tuần trăng mật ở Mexico, rằng tấm thảm trong hành lang là rất quý giá vì nó là món quà từ người bà kính mến và rằng chiếc ghế sofa cáu bẩn trong phòng làm việc vẫn được giữ lại vì nó là nơi những đứa trẻ trong nhà ngồi ăn khi chúng còn bé.
Có một kho lưu trữ của quá khứ có thể đóng góp lớn cho chất lượng cuộc sống. Nó giải phóng chúng ta khỏi sự chuyên chế của hiện tại và giúp cho ý thức có được khả năng xem xét lại thời gian trước. Nó cho phép lựa chọn và lưu giữ trong ký ức các sự kiện đặc biệt vui vẻ và có ý nghĩa, rồi từ đó tạo ra một quá khứ sẽ giúp chúng ta đương đầu với tương lai. Tất nhiên quá khứ như thế có thể không thật sự chính xác. Nhưng trong ký ức thì quá khứ không bao giờ có thể đúng một cách chính xác được: nó phải được chỉnh sửa liên tục và câu hỏi chỉ là liệu chúng ta có kiểm soát được một cách sáng tạo việc chỉnh sửa hay không.
Hầu hết chúng ta không nghĩ mình đã luôn là một nhà sử học nghiệp dư. Nhưng một khi chúng ta nhận thức được rằng việc sắp xếp các sự kiện kịp thời là một phần cần thiết để trở thành một người có ý thức và hơn nữa, đó là một nhiệm vụ thú vị, thì khi đó chúng ta có thể thực hiện việc đó tốt hơn nhiều. Có một số cấp độ mà lịch sử được xem như một hoạt động dòng chảy có thể thực hành được. Ở cấp độ cá nhân nhất chính là có một cuốn nhật ký. Cấp độ tiếp theo là viết một biên niên sử gia tộc, đi càng xa về quá khứ càng tốt. Nhưng không có lý do để dừng lại ở đó. Một số người mở rộng mối quan tâm đến tộc người của mình và bắt đầu sưu tập các cuốn sách và kỷ vật có liên quan. Với một nỗ lực đặc biệt, họ có thể bắt đầu ghi lại những ấn tượng của riêng mình về quá khứ, từ đó trở thành những nhà sử học nghiệp dư “đích thực”.
Những người khác có thể phát triển một mối quan tâm đến lịch sử của cộng đồng nơi họ sinh sống, hoặc là khu dân cư hoặc là tiểu bang, bằng cách đọc sách, tham quan bảo tàng và tham gia các hiệp hội lịch sử. Hoặc họ có thể tập trung vào một khía cạnh cụ thể của quá khứ đó: ví dụ, một người bạn sống ở vùng đất hoang dã phía tây Canada đã bị mê hoặc bởi “các công trình xây dựng thuộc nền công nghiệp thời kỳ đầu” tại vùng đất ấy và đã dần dần tích lũy đủ kiến thức về chúng để có thể tận hưởng những chuyến tham quan đến các xưởng cưa, xưởng đúc và ga xe lửa đổ nát ở nơi xa xôi hẻo lánh, nơi mà những kiến thức của anh có thể giúp anh ước lượng và nhận ra giá trị của những tiểu tiết quan trọng mà người khác có thể bỏ qua, xem như là những đống cỏ rác.
Rất thường xuyên, chúng ta có xu hướng nghĩ về lịch sử như một danh sách ngày tháng đáng ghi nhớ, một biên niên sử được xây dựng bởi các học giả cổ đại để làm cái thú riêng của họ. Đó là một lĩnh vực chúng ta có thể chịu đựng được nhưng không yêu thích, nó là một môn học mà chúng ta học để được xem là người có học, nhưng chúng ta học nó một cách miễn cưỡng. Nếu đây là trường hợp của bạn, thì lịch sử có thể đóng góp rất ít trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống. Kiến thức mà thông thường bị kiểm soát từ bên ngoài sẽ được tích lũy một cách miễn cưỡng và nó không mang lại niềm vui. Nhưng ngay khi người ta xác định khía cạnh nào đó của quá khứ là hấp dẫn và quyết định theo đuổi chúng, tập trung vào các nguồn và chi tiết có ý nghĩa mang tính cá nhân và ghi lại các phát hiện theo phong cách cá nhân, thì việc học lịch sử có thể trở thành một trải nghiệm dòng chảy chân chính.
CÁI THÚ CỦA KHOA HỌC
Sau khi đọc phần trên đây, bạn có thể đã thấy rằng hầu như không ai không thể trở thành một nhà sử học nghiệp dư. Nhưng nếu chúng ta chuyển lập luận ấy sang một lĩnh vực khác, liệu chúng ta có thể thật sự hình dung đến việc một người không có chuyên môn trở thành một nhà khoa học nghiệp dư không? Rốt cuộc, chúng ta đã nhiều lần nghe thấy rằng trong thế kỷ này, khoa học đã trở thành một hoạt động được thể chế hóa cao độ, với hoạt động chính yếu chỉ được giới hạn trong các liên minh lớn. Nó đòi hỏi các phòng thí nghiệm được trang bị xa hoa, ngân sách khổng lồ và các nhóm nhà nghiên cứu lớn để tồn tại trên địa phận của sinh học, hóa học hoặc vật lý học. Đúng là, nếu mục tiêu của khoa học là giành giải thưởng Nobel, hoặc thu hút sự công nhận của các đồng sự chuyên nghiệp trong lĩnh vực cạnh tranh cao thuộc một ngành nhất định, thì những phương thức nghiên cứu khoa học cực kỳ chuyên biệt và tốn kém kia có thể là lựa chọn duy nhất.
Trên thực tế, kịch bản ngốn nhiều vốn liếng này, dựa trên mô hình của dây chuyền lắp ráp, ngẫu nhiên lại là một mô tả không chính xác về những gì dẫn đến thành công trong khoa học “chuyên nghiệp”. Mặc dù những người chủ trương chế độ kỹ trị muốn chúng ta tin rằng những đột phá trong khoa học chỉ xuất hiện tại các đội nhóm mà trong đó mỗi nhà nghiên cứu đều được đào tạo trong một lĩnh vực rất chuyên biệt và ở nơi có thiết bị hiện đại nhất để sẵn sàng thử nghiệm những ý tưởng mới, nhưng điều này không đúng. Sự thật là không phải những khám phá vĩ đại chỉ được thực hiện bởi những trung tâm có mức tài trợ cao nhất. Những điều kiện này có thể giúp thử nghiệm các lý thuyết mới lạ, nhưng chúng không chịu trách nhiệm phần lớn đến việc liệu các ý tưởng sáng tạo có phát triển hay không. Những khám phá mới vẫn đến với mọi người như chúng đã đến với Democritus, người ngồi giữa quảng trường thành phố nhộn nhịp, lạc lối trong suy tưởng. Chúng đến với những người thích chơi đùa với những ý tưởng đến nỗi cuối cùng họ đi lạc vượt qua giới hạn của những gì đã biết và thấy mình đang khám phá một địa hạt chưa từng được khám phá.
Ngay cả việc theo đuổi khoa học “bình thường” (trái ngược với khoa học “cách mạng” hay sáng tạo) cũng sẽ gần như là không thể nếu nó không mang lại sự thưởng thức cho nhà khoa học. Trong cuốn sách The Structure of Scientific Revolutions (tạm dịch: Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học), Thomas Kuhn đã gợi ý một số lý do tại sao khoa học lại hấp dẫn. Trước tiên, “với việc tập trung chú ý vào một loạt các vấn đề tương đối bí ẩn, luận thuyết [hoặc phương pháp lý thuyết] buộc các nhà khoa học phải điều tra một phần của tự nhiên ở một mức độ chi tiết và chiều sâu mà nếu không làm vậy thì khó lòng tưởng tượng ra được”. Sự tập trung này khả dĩ là nhờ vào “các quy tắc giới hạn cả về bản chất của các giải pháp có thể chấp nhận và các bước thực hiện để thu được các giải pháp đó”. Và, Kuhn tuyên bố rằng một nhà khoa học đã dấn thân vào lĩnh vực khoa học “bình thường” thì không được thúc đẩy bởi hy vọng biến đổi kiến thức, hoặc tìm ra chân lý, hoặc cải thiện các điều kiện của cuộc sống. Thay vào đó, “những gì thách thức anh ta khi đó chính là sự thuyết phục rằng, nếu anh ta đủ tài giỏi, anh ta sẽ thành công trong việc giải quyết một vấn đề hóc búa mà trước đây không ai giải được, hay chưa ai giải quyết tốt như vậy”. Ông ấy cũng nói rằng, “Sự hấp dẫn của luận thuyết nghiên cứu bình thường… [đó là] mặc dù kết quả của nó có thể được dự đoán trước, thì con đường để đạt được kết quả đó vẫn còn rất nhiều điều chưa tỏ… Người nghiên cứu thành công chứng tỏ bản thân là một chuyên gia giải quyết các vấn đề hóc búa và sự thách thức của vấn đề chính là một phần quan trọng của những gì thường thúc đẩy anh ta”. Không có gì lạ khi các nhà khoa học thường cảm thấy giống như P. A. M. Dirac, nhà vật lý đã mô tả sự phát triển của cơ học lượng tử vào những năm 1920 bằng phát biểu: “Đây là một trò chơi, một trò chơi rất thú vị mà người ta có thể chơi”. Mô tả của Kuhn về sự lôi cuốn của khoa học giống một cách rõ ràng với những báo cáo mô tả việc tại sao câu đố, hoặc leo núi, hoặc chèo thuyền, hoặc cờ vua, hoặc bất kỳ hoạt động dòng chảy nào khác là mang tính tưởng thưởng.
Nếu các nhà khoa học “bình thường” được truyền động lực trong công việc thông qua những bài toán trí tuệ đầy tính thách thức, thì các nhà khoa học “cách mạng” – những người thoát khỏi những luận thuyết mang tính lý thuyết đang tồn tại để tiến lên những cái mới hơn – còn được thúc đẩy nhiều hơn bởi sự thưởng thức. Một ví dụ duyên dáng có liên quan đến Subrahhmanyan Chandrasekhar, nhà vật lý thiên văn có một cuộc đời đạt đến tầm cỡ huyền thoại. Rời Ấn Độ khi còn là một chàng trai trẻ vào năm 1933, trên một chiếc thuyền rề rà đi từ Calcutta đến Anh, ông viết ra một mô hình tiến hóa của các ngôi sao mà theo thời gian đã trở thành nền tảng của lý thuyết về các lỗ đen. Nhưng ý tưởng của ông quá mới lạ đến nỗi trong một thời gian dài chúng không được cộng đồng khoa học chấp nhận. Cuối cùng ông được nhận vào làm việc tại Đại học Chicago, nơi ông tiếp tục công việc nghiên cứu của mình với tên tuổi không được mấy người biết đến. Có một giai thoại nói về ông, thể hiện rõ ràng nhất sự cam kết của ông với công việc. Trong những năm 1950, Chandrasekhar đã lưu trú tại Williams Bay, Wisconsin, nơi tọa lạc các đài quan sát thiên văn chính của trường đại học, cách cơ sở chính khoảng tám mươi dặm. Mùa đông năm đó, ông được sắp xếp giảng dạy tại một hội thảo chuyên đề nâng cao về vật lý thiên văn. Chỉ có hai sinh viên đăng ký tham gia và người ta dự đoán rằng Chandrasekhar sẽ hủy bỏ hội thảo thay vì phải vượt qua sự bất tiện của việc đi lại. Nhưng ông đã không làm vậy và thay vào đó, ông lái xe trở lại Chicago hai lần một tuần, dọc theo những cung đường hẻo lánh, để đứng lớp. Vài năm sau, hai người sinh viên đó lần lượt giành giải thưởng Nobel về vật lý. Bất cứ khi nào câu chuyện này được kể lại, người kể chuyện vẫn thường kết luận với sự tiếc nuối rằng quả là một sự tủi thẹn khi chính giáo sư không bao giờ giành được giải thưởng. Sự hối tiếc đó không còn cần thiết nữa, bởi vì vào năm 1983, chính giáo sư Chandrasekhar đã được trao giải Nobel về vật lý.
Thường thì trong những hoàn cảnh khiêm tốn như vậy, với những người chuyên tâm chơi đùa với các ý tưởng, chính là lúc sự đột phá trong cách tư duy diễn ra. Một trong những khám phá lôi cuốn nhất trong vài năm qua liên quan đến lý thuyết siêu dẫn. Hai trong số các nhân vật trụ cột, K. Alex Muller và J. Georg Bednorz, những người đã tìm ra các nguyên tắc và tiến hành những thí nghiệm đầu tiên trong phòng thí nghiệm IBM ở Zurich, Thụy Sĩ, không hẳn là mờ nhạt nhưng cũng không phải nổi tiếng trong giới khoa học. Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu này đã không cho phép bất kỳ ai khác biết về công trình nghiên cứu của họ, không phải vì họ sợ nó sẽ bị đánh cắp, mà họ sợ rằng các đồng nghiệp sẽ cười vào những ý tưởng có vẻ điên rồ của mình. Họ đã nhận được giải thưởng Nobel về vật lý vào năm 1987. Susumu Tonegawa, người cùng năm đó đã nhận giải thưởng Nobel về sinh học, được vợ ông mô tả là “một người đi theo phong cách riêng của mình”, người thích đấu vật sumo vì bộ môn ấy đòi hỏi nỗ lực cá nhân thay vì những màn trình diễn của đội nhóm để chiến thắng, giống như công việc của chính ông vậy. Rõ ràng sự cần thiết của các phòng thí nghiệm tinh vi và các nhóm nghiên cứu quy mô lớn đã phần nào được phóng đại. Đột phá trong khoa học vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên của một trí tuệ đơn lẻ.
Nhưng chúng ta không nên chỉ ưu tiên quan tâm đến những gì xảy ra trong thế giới của các nhà khoa học chuyên nghiệp. “Đại Khoa học” có thể tự thân vận động, hoặc ít nhất là nên như vậy, với tất cả sự hỗ trợ mà nó đã được cung cấp kể từ khi các thí nghiệm phân hạch hạt nhân trở thành một thành công lớn như thế. Điều chúng tôi quan tâm ở đây là khoa học nghiệp dư, về niềm vui khi người bình thường có thể quan sát và ghi lại các quy luật của những hiện tượng tự nhiên. Quan trọng là phải nhận ra rằng, trong nhiều thế kỷ, các nhà khoa học vĩ đại đã theo đuổi công việc của họ như một sở thích, bởi vì họ say mê với các phương pháp mình phát minh ra hơn là vì đó là việc họ phải làm hay vì phải xài cho hết các khoản trợ cấp của chính phủ.
Nicolaus Copernicus đã hoàn thiện công trình mang tính thời đại mô tả về chuyển động của các hành tinh trong khi đang là một giáo sĩ tại nhà thờ Frauenburg, Ba Lan. Công trình thiên văn học ấy chắc chắn không giúp ích gì cho sự nghiệp của ông trong Giáo hội và trong phần lớn cuộc đời ông, những phần thưởng quan trọng mà ông có được chính là tính thẩm mỹ được tìm thấy trong vẻ đẹp giản dị của hệ thống ông tạo ra khi so với mô hình Ptolemaic50 cồng kềnh hơn. Galileo đã được đào tạo về y học và điều dẫn dắt ông vào thử nghiệm có tính mạo hiểm tăng dần chính là niềm vui ông tìm thấy trong việc khám phá ra những điều như là vị trí trung tâm trọng lực của các loại vật chất rắn khác nhau. Isaac Newton đã định hình những khám phá quan trọng của mình không lâu sau khi nhận bằng cử nhân tại Cambridge vào năm 1665, khi trường đại học bị đóng cửa vì bệnh dịch hạch. Newton đã phải trải qua hai năm trong sự an toàn và buồn chán của một đợt cách ly toàn quốc và ông đã dành trọn thời gian chơi đùa với những ý tưởng của mình về một lý thuyết vạn vật hấp dẫn. Antoine Laurent Lavoisier, người giữ chắc vị trí người khai lập hóa học hiện đại, là một công chức làm việc cho Ferme Generale, tương đương với IRS ở Pháp thời tiền cách mạng. Ông cũng tham gia vào cải cách nông nghiệp và lập kế hoạch xã hội, nhưng những thí nghiệm cổ điển và phong nhã là điều ông thích làm nhất. Luigi Galvani, người đã thực hiện nghiên cứu cơ bản về cách cơ bắp và dây thần kinh dẫn điện, từ đó dẫn đến việc phát minh ra pin điện, vốn là một bác sĩ thực hành cho đến cuối đời. Gregor Mendel cũng là một giáo sĩ và các thí nghiệm đặt nền móng cho di truyền học của ông là kết quả của sở thích làm vườn. Khi Albert A. Michelson, người đầu tiên ở Hoa Kỳ giành giải thưởng Nobel về khoa học, được hỏi vào lúc cuối đời rằng tại sao ông lại dành quá nhiều thời gian để đo vận tốc ánh sáng, ông đã trả lời, “Nó là một niềm vui rất lớn”. Và, để chúng ta khỏi quên, xin nhắc rằng Einstein đã viết những bài báo có ảnh hưởng nhất của mình khi đang làm thư ký tại Văn phòng Bằng sáng chế Thụy Sĩ. Những người này và nhiều nhà khoa học vĩ đại khác mà người ta có thể dễ dàng đề cập đến đã không hề bị hạn chế trong tư duy chỉ bởi vì họ không phải là “chuyên gia” trong lĩnh vực mà họ hứng thú, hay vì họ không được công nhận với các nguồn hỗ trợ hợp pháp. Họ chỉ đơn giản là làm những gì mình thích làm.
Tình hình ngày nay có thực sự khác đi không? Có thật là một người không có bằng tiến sĩ, không làm việc tại một trong những trung tâm nghiên cứu lớn, thì không còn cơ hội đóng góp cho sự tiến bộ khoa học? Hay có phải đây chỉ là một trong những nỗ lực vô thức to lớn nhằm tạo nét bí ẩn, điều mà tất cả các tổ chức thành công rõ ràng không cưỡng lại được? Khó trả lời được những câu hỏi này, một phần bởi vì những gì cấu thành nên “khoa học” hiển nhiên là được xác định bởi chính những tổ chức vốn chờ đợi để được hưởng phúc lợi từ sự độc quyền của họ này.
Không còn nghi ngờ gì nữa, một người không có chuyên môn không thể đóng góp, như một sở thích, cho loại nghiên cứu phụ thuộc vào các máy siêu gia tốc trị giá hàng tỉ đô-la hoặc vào quang phổ cộng hưởng từ hạt nhân. Nhưng, các lĩnh vực như vậy không là đại diện cho kiểu khoa học duy nhất tồn tại. Cơ cấu tổ chức tinh thần giúp cho khoa học mang tính thưởng thức chính là nó có thể truy cập được, dành cho tất cả mọi người. Nó bao gồm sự tò mò, quan sát tỉ mỉ, phương pháp kỷ luật trong ghi nhận các sự kiện và tìm cách mổ xẻ các quy chuẩn cơ bản trong những gì người ta nghiên cứu. Nó cũng đòi hỏi sự khiêm tốn để sẵn sàng học hỏi từ kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, cùng với sự hoài nghi và sự cởi mở của tâm trí vừa đủ để từ chối những niềm tin không được hỗ trợ bởi sự thật khách quan.
Với định nghĩa theo nghĩa rộng này, có nhiều nhà khoa học nghiệp dư đang hành nghề hơn chúng ta nghĩ. Một số tập trung quan tâm đến sức khỏe của mình và cố gắng tìm hiểu mọi thứ có thể về một căn bệnh đe dọa chính họ hoặc gia đình họ. Theo bước chân của Mendel, một số người học bất cứ điều gì có thể về việc nhân giống vật nuôi hoặc lai tạo ra những loại hoa mới. Những người khác tái tạo một cách say mê các quan sát của các nhà thiên văn học thời kỳ đầu bằng kính viễn vọng đặt ở sân sau của mình. Có những nhà địa chất học đi lang thang trong vùng hoang dã để tìm kiếm khoáng sản, những người thu thập xương rồng đã lùng sục các sa mạc để tìm mẫu vật mới và có lẽ hàng trăm ngàn cá nhân đã nâng các kỹ năng cơ học của họ đến mức họ am hiểu khoa học thực sự.
Điều ngăn cản nhiều người trong số này phát triển các kỹ năng của họ hơn nữa chính là niềm tin rằng họ sẽ không bao giờ có thể trở thành những nhà khoa học chân chính, chuyên nghiệp và do đó, sở thích của họ sẽ không được coi trọng. Nhưng không có lý do nào để nghiên cứu khoa học tốt hơn là cảm giác về trật tự mà nó mang lại cho tâm trí của người nghiên cứu. Nếu trạng thái dòng chảy là thước đo quyết định giá trị của khoa học, thay vì thành công và sự công nhận, thì nó có thể đóng góp vô cùng to lớn cho chất lượng cuộc sống.
YÊU TRÍ TUỆ
“Triết học” từng mang nghĩa là “tình yêu trí tuệ” (love of wisdom) và nhiều người đã cống hiến cả cuộc đời của họ cho triết học vì chính lý do ấy. Thời điểm hiện tại, các nhà triết học chuyên nghiệp sẽ ngượng ngùng với việc thừa nhận một quan niệm quá ngây thơ như thế về nghề nghiệp của họ. Ngày nay, một triết gia có thể là một chuyên gia về giải cấu kiến trúc (deconstructionism) hoặc chủ nghĩa thực chứng logic (logical positivism), một người am hiểu triết học tiền Kant hoặc hậu Hegel, một nhà nhận thức luận hoặc một nhà hiện sinh, nhưng đừng quấy rầy anh ta với sự hiểu biết (wisdom). Số phận chung của nhiều tổ chức con người là chúng khởi đầu như là một giải pháp cho một số vấn đề phổ quát cho đến khi, sau nhiều thế hệ, các vấn đề riêng biệt của chính các tổ chức sẽ được ưu tiên hơn mục tiêu ban đầu. Ví dụ, các quốc gia hiện đại xây dựng lực lượng vũ trang như một phòng tuyến chống lại kẻ thù. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, quân đội phát triển nhu cầu và quan điểm chính trị của chính họ, đến mức mà người lính thành công nhất không nhất thiết là người bảo vệ đất nước tốt nhất, mà là người kiếm được nhiều tiền nhất cho quân đội.
Các nhà triết học không chuyên, không giống như các đồng nghiệp chuyên nghiệp của họ tại các trường đại học, không cần phải lo lắng về các cuộc đấu tranh lịch sử để nổi bật giữa các trường phái cạnh tranh, không cần lo lắng về quan điểm chính trị của các tạp chí hay lòng đố kỵ mang tính cá nhân giữa các học giả. Họ có thể giữ tâm trí hướng về các câu hỏi cơ bản. Các câu hỏi cơ bản này là gì chính là nhiệm vụ đầu tiên mà một nhà triết học không chuyên phải quyết định. Có phải anh ta quan tâm đến những gì mà những nhà tư tưởng giỏi nhất trong quá khứ đã tin về ý nghĩa của “tồn tại”? Hay anh ta quan tâm nhiều hơn đến những gì cấu thành nên “cái thiện” hay “cái đẹp”?
Như trong tất cả các ngành học khác, bước đầu tiên sau khi quyết định lĩnh vực nào người ta muốn theo đuổi chính là tìm hiểu những gì người khác đã nghĩ về vấn đề này. Bằng cách đọc, trò chuyện và lắng nghe một cách có chọn lọc, người ta có thể hình thành một ý tưởng về “mức độ phát triển cao nhất hiện tại” của lĩnh vực ấy. Một lần nữa, tầm quan trọng của việc đích thân kiểm soát định hướng học tập từ những bước đầu tiên có nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Nếu ai đó cảm thấy bị ép buộc phải đọc một cuốn sách hay theo một khóa học nào đó chỉ bởi vì đó được xem là việc phải làm, thì học tập sẽ đi ngược lại với bản chất của nó. Nhưng nếu quyết định đi theo con đường đó vì cảm giác đúng đắn nội tại, thì việc học sẽ tương đối dễ dàng và thú vị.
Khi những sự yêu chuộng cá nhân trong triết học trở nên rõ ràng, ngay cả những người nghiệp dư cũng có thể cảm thấy bắt buộc phải chuyên môn hóa. Ai đó quan tâm đến các đặc trưng cơ bản của thực tại có thể trôi dạt về hướng của bản thể học và đọc Wolf, Kant, Husserl và Heidegger. Một người khác bị đánh đố bởi các câu hỏi về đúng và sai sẽ lần giở phạm trù đạo đức và tìm hiểu triết lý đạo đức của Aristotle, Aquinas, Spinoza và Nietzsche. Một người quan tâm cái đẹp là gì có thể được dẫn dắt để xem xét ý tưởng của các nhà triết học thẩm mỹ như Baumgarten, Croce, Santayana và Collingwood. Mặc dù chuyên môn hóa là cần thiết để phát triển sự phức tạp của bất kỳ mô hình tư tưởng nào, thì mối quan hệ mục tiêu – kết quả phải luôn được giữ rõ ràng: chuyên môn hóa là để suy nghĩ tốt hơn chứ không phải là mục đích cuối cùng. Thật không may, nhiều nhà tư tưởng nghiêm túc dành tất cả nỗ lực tinh thần của họ để trở thành học giả nổi tiếng, nhưng đồng thời lại quên mất mục đích ban đầu của họ trong học thuật.
Trong triết học, cũng như trong các ngành học khác, có một điểm mà người ta sẵn sàng chuyển từ trạng thái của người tiêu thụ thụ động sang người sản xuất chủ động. Viết ra những hiểu biết của một cá nhân với kỳ vọng rằng một ngày nào đó chúng sẽ được đọc bởi sự thảng thốt của hậu thế, trong hầu hết các trường hợp, là một “giả định ngạo mạn” đã gây ra rất nhiều mối phiền lụy trong các vấn đề nhân loại. Nhưng nếu một người ghi lại những ý tưởng để phản hồi lại một thách thức bên trong, để trình bày rõ ràng những câu hỏi lớn mà người đó cảm thấy phải đối mặt và cố gắng phác thảo những câu trả lời giúp trải nghiệm của người đó có ý nghĩa, thì triết gia nghiệp dư sẽ học được cách tìm thấy sự thưởng thức từ một trong những nhiệm vụ khó khăn và bổ ích nhất của cuộc sống.
NGHIỆP DƯ VÀ CHUYÊN NGHIỆP
Một số cá nhân thích chuyên môn hóa và dành tất cả năng lượng của họ cho một hoạt động, nhằm đạt được mức độ thể hiện gần như chuyên nghiệp. Họ có xu hướng ra vẻ kẻ cả trước bất cứ ai không khéo léo và tận tụy với chuyên môn như họ. Những người khác thích lao vào một loạt các hoạt động, có được sự thưởng thức càng nhiều càng tốt từ mỗi hoạt động mà không nhất thiết phải trở thành một chuyên gia trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Có hai từ mang ý nghĩa phản ánh thái độ có đôi chút lệch lạc của chúng ta đối với các mức độ cam kết với các hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Đó là những thuật ngữ: nghiệp dư và tài tử. Ngày nay những danh hiệu như thế là hơi xúc phạm. Một người nghiệp dư hoặc một tài tử là một người không đủ các chuẩn mực, một người không được coi trọng lắm, một người có sự thể hiện kém xa các tiêu chuẩn của sự chuyên nghiệp. Nhưng về mặt nguồn gốc, “người nghiệp dư” (amateur) trong động từ tiếng La-tinh amare, nghĩa là “tình yêu”, đề cập đến một người yêu thích những gì anh ta đang làm. Tương tự, “người tài tử” (dilettante), xuất phát từ tiếng La-tinh delectare, nghĩa là “tìm thấy niềm vui”, tức là một người cảm thấy thích thú trong một hoạt động nhất định. Do đó, ý nghĩa sớm nhất của những từ này đã tập trung vào trải nghiệm hơn là thành tựu; chúng mô tả các phần thưởng chủ quan mà các cá nhân đạt được từ việc thực hiện hành động đó thay vì tập trung vào việc họ đạt thành tựu tốt đẹp ra sao. Không có gì minh họa cho thái độ thay đổi của chúng ta đối với giá trị của trải nghiệm rõ ràng như số phận của hai từ này. Đã có lúc nếu bạn là một nhà thơ nghiệp dư hoặc một nhà khoa học tài tử là việc rất tuyệt vời, bởi vì điều đó có nghĩa là chất lượng cuộc sống có thể được cải thiện bằng cách tham gia vào các hoạt động đó. Nhưng sự nhấn mạnh ngày một gia tăng được đặt vào giá trị của những hành vi hơn là những trạng thái chủ quan; những gì được ngưỡng mộ bây giờ là thành công, thành tích, chất lượng của thành quả hơn là chất lượng trải nghiệm. Do đó, việc được gọi là một tài tử đã trở thành điều khó xử, mặc dù trở thành một tài tử nghĩa là đạt được những gì đáng giá nhất – sự thưởng thức mà những hoạt động có thể cung cấp.
Đúng là hình thức nghiên cứu mang tính tài tử được khuyến khích ở đây có thể bị mất gốc dễ dàng hơn học thuật chuyên nghiệp, nếu người nghiên cứu đánh mất tầm nhìn về mục tiêu thúc đẩy họ. Những người không chuyên với một động cơ cá nhân thỉnh thoảng có thể chuyển hướng sang ngụy khoa học để thúc đẩy cho mối quan tâm của mình và thông thường những nỗ lực của họ là gần như không thể phân biệt với những người nghiệp dư có động lực về bản chất.
Chẳng hạn, mối quan tâm đến lịch sử nguồn gốc dân tộc có thể dễ dàng bị biến thành một cuộc tìm kiếm bằng chứng về sự vượt trội của chính mình so với các thành viên của các tộc khác. Phong trào Quốc xã ở Đức đã chuyển sang nhân chủng học, lịch sử, giải phẫu, ngôn ngữ, sinh học và triết học, rồi từ đó dựng nên lý thuyết chủng tộc Aryan thượng đẳng. Các học giả chuyên nghiệp cũng bị cuốn vào công trình đáng ngờ này, nhưng nó được truyền cảm hứng bởi những người nghiệp dư và các quy tắc trong cuộc chơi này lại thuộc về chính trị, không phải khoa học.
Khoa học sinh học Liên Xô đã bị đẩy lùi lại cả một thế hệ khi giới có thẩm quyền quyết định áp dụng các quy tắc của ý thức hệ cộng sản vào trồng ngô, thay vì theo bằng chứng thực nghiệm. Những ý tưởng của Lysenko về việc các loại ngũ cốc được trồng trong khí hậu lạnh sẽ phát triển mạnh hơn và tạo ra những thế hệ thậm chí còn mạnh mẽ hơn, với những người không có chuyên môn thì điều đó nghe thật tốt, đặc biệt là trong bối cảnh giáo điều của thời điểm đó. Thật không may, phương pháp chính trị và phương pháp canh tác ngô không phải lúc nào cũng giống nhau và những nỗ lực của Lysenko đã dẫn đến nhiều thập kỷ đói kém.
Những ý nghĩa tiêu cực mà các thuật ngữ nghiệp dư và tài tử phải nhận về mình trong nhiều năm qua phần lớn là do sự mờ nhạt của ranh giới phân biệt giữa các mục tiêu bên trong và bên ngoài. Một người nghiệp dư giả vờ hiểu biết nhiều như một người có chuyên môn có thể đưa ra những kiến thức sai và dẫn đến những nguy hại. Trọng điểm của việc trở thành một nhà khoa học nghiệp dư không phải là cạnh tranh với các chuyên gia trên chính sân nhà của họ, mà là sử dụng một quá trình rèn luyện trí óc tượng trưng để mở rộng các kỹ năng tinh thần và tạo ra trật tự trong ý thức. Ở cấp độ đó, sự hiểu biết nghiệp dư có thể tự đứng vững và thậm chí có thể hiệu quả hơn so với đồng sự chuyên nghiệp của nó. Nhưng khoảnh khắc mà những người nghiệp dư đánh mất tầm nhìn khỏi mục tiêu này và sử dụng kiến thức chủ yếu để củng cố bản ngã của họ, hoặc để đạt được lợi nhuận về vật chất, khi đó họ trở thành những bức tranh biếm họa của người có học. Không được đào tạo trong kỷ luật của sự hoài nghi và phê bình đối ứng, vốn làm nền tảng cho phương pháp khoa học, những người không có chuyên môn dấn thân vào các lĩnh vực tri thức với những mục tiêu định kiến có thể trở nên tàn nhẫn hơn, thậm chí còn không quan tâm đến sự thật hơn cả những học giả tồi tệ nhất.
THÁCH THỨC CỦA VIỆC HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
Mục đích của chương này là xem xét các phương thức mà hoạt động tinh thần có thể tạo ra sự thưởng thức. Chúng ta đã thấy rằng tối thiểu thì tâm trí cũng cung cấp nhiều và mạnh mẽ những cơ hội để hành động ngang bằng với cơ thể. Cũng giống như việc sử dụng tay chân và các giác quan luôn sẵn sàng cho tất cả mọi người mà không liên quan đến giới tính, chủng tộc, giáo dục hoặc tầng lớp xã hội, thì việc sử dụng bộ nhớ, ngôn ngữ, logic, quy tắc nhân quả cũng là khả thi với bất cứ ai muốn kiểm soát tâm trí.
Nhiều người từ bỏ việc học sau khi họ ra trường vì mười ba hoặc hai mươi năm giáo dục với động lực từ bên ngoài vẫn là một nguồn ký ức khó chịu. Sự chú ý của họ đã bị thao túng đủ lâu từ bên ngoài bởi những quyển sách giáo khoa và các giáo viên, và họ đã coi ngày tốt nghiệp là ngày đầu tiên của tự do.
Nhưng một người quên mất việc sử dụng các kỹ năng biểu tượng của mình thì không bao giờ thực sự tự do. Suy nghĩ của người này sẽ bị dẫn dắt bởi ý kiến của hàng xóm, bởi các bài xã luận trên các tờ báo và bởi những lời kêu gọi trên truyền hình. Anh ta phải chịu đựng sự thao túng của các “chuyên gia”. Một cách lý tưởng thì sự kết thúc của giáo dục được áp đặt từ bên ngoài nên là sự khởi đầu của một nền giáo dục được thúc đẩy từ bên trong. Tại cấp độ đó, mục tiêu học tập không còn là để lên lớp, lấy bằng tốt nghiệp và tìm một công việc tốt. Thay vào đó, người ta học để hiểu những gì đang xảy ra xung quanh, để phát triển ý thức cá nhân có ý nghĩa về tất cả những trải nghiệm của mình. Từ đó dẫn đến niềm vui sâu sắc của nhà tư tưởng, giống như trải nghiệm của các môn đệ Socrates mà Plato mô tả trong Philebus: “Người thanh niên say rượu lần đầu tiên từ mùa xuân đó hạnh phúc như thể anh đã tìm thấy một kho báu của sự khôn ngoan; anh mê mẩn điều đó một cách tuyệt đối. Anh sẽ chọn bất kỳ diễn ngôn nào, đưa tất cả các ý tưởng của nó lại với nhau để biến chúng thành một, sau đó tách chúng ra và mổ xẻ chúng thành từng mảnh. Trước tiên, anh sẽ tự đánh đố mình, sau đó là những người khác, bất cứ ai đến gần anh, già trẻ, anh thậm chí không tha cha mẹ mình, hay bất cứ ai sẵn lòng lắng nghe…”.
Lời trích dẫn đã có tuổi đời khoảng hai mươi bốn thế kỷ, nhưng một người quan sát đương đại cũng không thể mô tả một cách sinh động hơn như vậy về những gì xảy ra khi một người lần đầu tiên phát hiện ra dòng chảy của tâm trí.