Hãy Chăm Sóc Mẹ - Shin Kyung Sook - Chương 2
Cô trườn hẳn lên phản từ lúc nào không hay, nâng khuôn mặt méo xệch của mẹ lên đặt vào đầu gối mình. Cô đỡ một tay dưới nách mẹ để đầu mẹ không trượt khỏi đầu gối và cứ giữ mẹ ở tư thế như vậy. Sao mẹ lại bị bỏ mặc trong tình trạng này? Ý nghĩ oán giận chợt lóe lên trong đầu cô, cứ như thể có ai đó đã quẳng mẹ cô vào nhà kho trong nông nỗi này. Mặc dù cô mới chính là người rời xa mẹ. Khi vô cùng hoảng hốt thì người ta chẳng thể nghĩ ra phải làm gì. Mình có nên gọi xe cứu thương? Mình có nên đưa mẹ vào nhà? Bố đâu rồi? Những ý nghĩ ấy ào ạt qua đầu cô nhưng cô chẳng làm được gì hơn là nhìn xuống gương mặt mẹ. Cô chưa bao giờ thấy mặt mẹ vẹo vọ đi như thế, vô cùng khổ sở trong cơn đau dữ dội. Bàn tay vừa nãy mẹ đặt trên trán giờ đã bơ phờ rũ xuống sàn nhà. Mạch đập yếu ớt, hơi thở khó nhọc. Mẹ không còn gồng mình cố chống chọi cơn đau nữa, chân tay xoãi ra, mềm nhũn bất động. “Mẹ ơi!” cô gọi to và ôm chặt lấy cơ thể mẹ, tim cô đập thình thịch. Thốt nhiên cô nghĩ e rằng mẹ sẽ chết mất. Một lúc sau mẹ cô từ từ mở mắt ra, hướng ánh mắt về phía cô. Lẽ ra mẹ phải ngạc nhiên khi thấy cô, nhưng đôi mắt mẹ trống không. Mẹ quá yếu nên phản ứng vô cùng chậm chạp. Một lúc lâu sau mẹ gọi tên cô nhưng khuôn mặt vẫn hoàn toàn vô cảm. Mẹ cứ lẩm nhẩm điều gì đó một cách mơ hồ. Cô phải ghé sát tai vào để nghe.
“Khi bác con mất, mẹ thậm chí đã không khóc được.” Nhìn khuôn mặt trắng bệch kinh hoàng của mẹ, cô không thể nói được dù chỉ một lời an ủi.
Đám tang của bác gái cô là vào mùa xuân. Cô đã không đến dự đám tang, thậm chí trong suốt một năm bác ốm đau cô cũng không đến thăm lấy một lần. Cô đã làm gì trong khoảng thời gian đó nhỉ? Hồi cô còn bé, bác như người mẹ thứ hai của cô. Cứ tới kỳ nghỉ hè cô lại đến ở nhà bác, chỉ cách nhà cô một quả núi. Trong mấy anh em cô, bác quý cô nhất, có lẽ là do cô giống mẹ. Bác thường nói rằng cô và mẹ cô giống nhau như đúc. Cứ như thể đang dựng lại không gian tuổi thơ giữa hai chị em, bác cùng cô cho thỏ ăn, bác tết tóc cho cô thành ba bím. Bác thường độn một muỗng gạo trên nồi mì và để dành riêng phần cơm trắng cho cô. Buổi tối, bác cho cô nằm vào lòng và kể chuyện cổ tích cho cô nghe. Cô vẫn nhớ khi mình gối đầu lên tay bác ngủ ngon lành. Dù bác không còn nữa nhưng cô vẫn nhớ mùi hương của bác từ thuở ấy. Khi về già bác trông nom mấy đứa cháu, bố mẹ nó bận mở lò bánh mì. Bác ngã cầu thang khi đang cõng cháu nên phải vào bệnh viện, đến lúc ấy bác mới biết bệnh ung thư đã di căn khắp cơ thể bác, không làm gì được nữa. Khi báo cho cô tin này, mẹ cô đã nói, “Tội nghiệp bác con quá!”
“Tại sao đến tận bây giờ họ mới phát hiện ra căn bệnh chứ?”
“Vì bác con chưa một lần được kiểm tra sức khỏe.”
Mẹ cô thường nấu cháo đặc mang đến bón cho bác ăn. Cô im lặng lắng nghe mỗi khi mẹ gọi điện bảo, “Hôm qua mẹ sang thăm bác, mẹ nấu cháo mè mang đến, bác ăn ngon miệng lắm.” Cô là người đầu tiên mẹ gọi điện báo tin bác mất.
“Bác con mất rồi.”
Cô không nói gì.
“Con bận thế nên không cần đến đám tang đâu.”
Dù mẹ không nói vậy thì cô cũng không thể đến dự đám tang của bác vì đã đến hạn chót phải nộp bản thảo. Sau khi đi dự đám tang của bác về, anh Hyong-chol nói với cô anh đã lo là mẹ sẽ đau khổ tuyệt vọng, nhưng mẹ không hề khóc và cũng không muốn đưa bác ra nghĩa trang. “Thật vậy sao?” cô hỏi lại. Anh cả nói rằng anh cũng thấy đây là chuyện lạ tuy nhiên anh tôn trọng ý muốn của mẹ.
Nhưng ở trong nhà kho ngày hôm ấy, với khuôn mặt xác xơ đau đớn, mẹ đã nói với cô rằng mẹ thậm chí không thể khóc khi bác mất.
“Sao lại phải thế? Nếu mẹ muốn thì mẹ cứ khóc.” Mặc dù không biểu lộ ra nhưng cô thấy trong lòng đã nhẹ đi đôi chút khi mẹ đang trở lại là người mẹ xưa nay của cô.
Mẹ cô khẽ chớp chớp mắt. “Mẹ không thể khóc thêm được nữa.”
Cô không nói gì.
“Đầu mẹ đau như muốn nổ tung.”
Ánh nắng cuối ngày sưởi ấm không gian, cô nhìn chằm chằm vào khuôn mặt mẹ trong lòng mình cứ như lần đầu tiên được nhìn thấy nó. Mẹ bị đau đầu? Nhức nhối đến mức mẹ thậm chí không thể khóc được? Đôi mắt đen tròn sáng rực của mẹ như mắt con bò mẹ lúc chuẩn bị sinh ẩn dưới những nếp nhăn sâu hoắm. Cặp môi vêu vao, tái nhợt của mẹ khô khốc và nứt nẻ. Cô đã không biết rằng mẹ phải chịu những cơn đau đầu dữ dội đến mức không thể khóc được trong đám tang bác. Cô nâng cánh tay xoãi xuống phản của mẹ đặt lên bụng mẹ. Cô nhìn sâu vào những đốm đen trên mu bàn tay tảo tần cả đời lam lũ của mẹ. Cô không thể nói là mình hiểu rõ mẹ được nữa.
Thời bác trai cô còn sống, cứ thứ Tư hằng tuần bác lại đến thăm mẹ cô. Hồi đó bác mới trở về thị trấn J sau nhiều năm lang thang nay đây mai đó khắp đất nước. Bác đến chẳng phải có việc gì đặc biệt, chỉ là đạp xe tới xem mẹ cô ra sao rồi lại quay về. Có khi bác đến mà không vào trong nhà, chỉ đứng ngoài cổng gọi to, “Em vẫn khỏe chứ?” Rồi mẹ cô chưa kịp ra ngoài sân, bác đã nói, “Anh phải đi đây!” và quay xe đi mất. Trước đây cô cứ nghĩ quan hệ giữa mẹ và bác không gần gũi đến thế. Một lúc nào đó trước khi cô sinh, bác đã vay bố cô một khoản tiền lớn mà không trả. Thi thoảng mẹ cô vẫn lại nhắc lại chuyện ấy và tỏ ra rất giận bác. Mẹ nói với cô rằng vì bác mà mẹ luôn cảm thấy mắc nợ với bố cô và bà chị chồng. Mặc dù món nợ là của bác nhưng dường như chuyện bác không trả nợ đã khiến mẹ cô rất khó xử. Trong khoảng bốn năm năm không có tin gì của bác, mẹ cô rất sốt ruột và luôn nhắc nhở, “Không biết giờ bác con ra sao rồi.” Cô không chắc mẹ đang lo cho bác hay đang giận bác.
Một hôm – chuyện này xảy ra trước khi bố mẹ xây ngôi nhà hiện nay – mẹ nghe thấy ai đó đẩy cổng bước vào rồi cất tiếng gọi, “Em ơi, có ở nhà không?” Mẹ cô lúc đó đang ngồi trong nhà ăn quýt với cô, vội vàng đẩy cửa chạy ào ra. Mọi việc diễn ra quá nhanh. Ai mà khiến mẹ cô quýnh quáng lên thế nhỉ? Tò mò muốn biết sự tình nên cô cũng chạy theo ra ngoài. Mẹ cô dừng lại trên thềm, nhìn ra cổng và reo lên, “Anh trai!” rồi cứ để cả chân trần chạy ào ra phía người đang đứng bên cổng. Người đó là bác trai cô. Mẹ cô chạy nhanh như gió đến bên bác, đấm thùm thụp vào ngực bác rồi nức nở, “Anh ơi! Anh ơi!” Đứng trong hiên nhà, cô đã được tận mắt chứng kiến bộ dạng của mẹ lúc ấy. Đó là lần đầu tiên cô nghe thấy mẹ gọi ai đó là “anh trai”. Mỗi khi nhắc đến bác trai cô, mẹ cô thường nói là “bác con”. Chẳng hiểu sao cô lại cảm thấy bất ngờ khi nhìn thấy mẹ chạy về phía bác và gọi “anh ơi” trong nỗi vui mừng khôn xiết, trong khi lúc nào cô cũng nghĩ đó là bác trai của mình. Cô nhận ra rằng, Ồ! Mẹ cũng có anh trai. Đôi lúc cô bật cười với chính mình khi nhớ lại bộ dạng của mẹ hôm đó, người mẹ già của cô nhảy phóc xuống thềm chạy băng qua sân đến chỗ bác cô và hét lên, “Anh ơi!” như một đứa trẻ. Hôm ấy mẹ hành động giống như mẹ là một cô bé con thậm chí còn nhỏ hơn cô. Hình ảnh đó của mẹ đã khắc sâu trong tâm trí cô. Điều ấy khiến cô nghĩ, kể cả mẹ cũng đã từng… Cô chẳng hiểu tại sao phải lâu đến vậy cô mới nhận ra một điều hiển nhiên đến vậy. Với cô, mẹ lúc nào cũng là mẹ. Cô chưa bao giờ nghĩ rằng mẹ cũng từng chập chững bước đầu tiên, mẹ cũng lên ba, rồi mười hai rồi hai mươi tuổi. Cô luôn cho rằng mẹ là mẹ. Mẹ sinh ra đã là mẹ. Cho đến tận khi cô chứng kiến cảnh mẹ vừa gọi “Anh ơi!” vừa chạy ào lại chỗ bác trai như thế. Cô cũng dần dần nhận thức được rằng trong sâu thẳm trái tim mẹ vẫn ấp ủ tình cảm y hệt như tình cảm cô dành cho các anh em trai mình và rằng mẹ cũng có một thời thơ ấu. Từ đấy trở đi, thỉnh thoảng cô lại nghĩ về mẹ như một em bé, một cô gái, một thiếu nữ, một tân nương, một người mẹ trẻ vừa sinh ra cô.
Cô không thể bỏ mặc mẹ để trở về thành phố sau khi thấy mẹ nằm trong nhà kho như thế. Bố cô đã đến Sokcho cùng với một số người ở Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Truyền thống Hàn Quốc, chắc phải hai ngày nữa mới về. Dù không còn đau đớn tột độ, mẹ vẫn không thể thoát được cơn đau đầu và thậm chí không thể mỉm cười. Không chỉ không thể mỉm cười mà mẹ còn không thể khóc. Mẹ thậm chí chẳng hiểu gì khi cô bảo muốn đưa mẹ đi bệnh viện. Lúc cô dìu mẹ lên nhà trên, mẹ bước rón rén, cố kìm giữ cơn đau. Phải một lúc lâu sau mẹ mới nói được. Mẹ nói mẹ đau đầu mãn tính nhưng những cơn đau dữ dội chỉ “lâu lâu mới xảy ra một lần.” Mẹ có thể đối phó được khi những khoảnh khắc ấy qua đi. Liệu các anh em cô có biết chứng đau đầu của mẹ không? Cả bố nữa?
Cô muốn nói với các anh em trai về chứng đau đầu của mẹ và đưa mẹ lên một bệnh viện lớn trên thành phố ngay khi cô trở lại thành phố. Vừa tự mình túc tắc đi lại được, mẹ liền hỏi cô, “Con không phải về à?” Dạo đó những lần về thăm nhà của cô thường ngắn ngủi hơn, cô chỉ ở lại mấy tiếng đồng hồ rồi lên thành phố. Cô nghĩ đến cuộc hẹn với bạn trai vào ngày mai nhưng cô nói với mẹ là cô sẽ ngủ lại đêm nay. Khi nghe vậy, một nụ cười tươi nở trên môi mẹ.
Cô để con bạch tuộc còn sống mua ngoài chợ hải sản ở thành phố P lại trong bếp vì cả hai mẹ con chẳng biết cách làm nó, rồi ra ngồi đối diện với mẹ qua bàn ăn giống như ngày xưa, bữa cơm chẳng có gì ngoài mấy món đạm bạc. Hai mẹ con lặng lẽ ăn cơm với kim chi trắng, đậu hầm, cá đối chiên và rong biển. Thỉnh thoảng mẹ cô lấy rong biển cuốn cơm rồi đưa cho cô như hồi cô còn nhỏ, cô đón lấy và nhai chậm rãi. Sau bữa ăn, hai mẹ con cô đi quanh nhà cho nhẹ bụng. Tuy không còn là ngôi nhà cũ, nhưng cả sân trước, sân bên cạnh và sân sau vẫn thông với nhau như ngày xưa. Vẫn có rất nhiều chum sành xếp hàng ở gò sân sau như thế. Ngày xưa những chiếc chum chứa đầy xì dầu, tương ớt, muối và tương đậu, nhưng giờ đây chúng chỉ còn là những chiếc chum không. Khi hai mẹ con đi vòng quanh ngôi nhà, có lúc mẹ dẫn trước cũng có lúc mẹ tụt lại sau, mẹ bỗng hỏi cô vì sao về nhà đột ngột vậy.
“Con đi thành phố P…”
“Thành phố P cách đây xa lắm.”
“Vâng.”
“Đến đó còn xa hơn đến Seoul đấy.”
“Vâng, đúng vậy.”
“Cái gì đã khiến con đi từ thành phố P về đây trong khi con hầu như chẳng khi nào có thời gian rảnh rỗi về thăm nhà?”
Thay vì trả lời thẳng câu hỏi, cô tha thiết nắm lấy bàn tay thô kệch của mẹ như đang cố túm vào sợi dây cứu sinh trong đêm tối. Cô không biết phải giải thích ra sao cảm xúc của chính mình. Cô kể với mẹ rằng sáng hôm ấy cô có giờ giảng tại Thư viện chữ nổi ở thành phố P.
“Thư viện chữ nổi nghĩa là gì?” mẹ cô hỏi.
“Chữ nổi là kiểu chữ để người khiếm thị đọc bằng tay ấy mẹ.”
Mẹ gật gật đầu khi nghe cô giải thích. Vừa đi quanh nhà, cô vừa kể ẹ nghe về chuyến đi đến thành phố P của cô. Mấy năm lại đây, người thủ thư Thư viện chữ nổi đó thường mời cô đến giảng bài nhưng chẳng hiểu sao lần nào cô cũng vướng lịch nên không thể nhận lời. Đầu xuân năm nay, ông ấy lại gọi điện cho cô. Khi đó cô vừa xuất bản tác phẩm mới nhất của mình. Ông ấy nói họ muốn xuất bản cuốn sách mới của cô bằng chữ nổi. Chữ nổi ư? Cô không biết nhiều lắm về chữ nổi. Cô chỉ biết chữ nổi là ngôn ngữ dành cho người khiếm thị, đúng như những gì cô nói với mẹ. Cô cảm thấy hết sức ấn tượng khi nghe người thủ thư nói, cứ như thể cô đang nghe về một cuốn sách cô chưa từng đọc vậy. Ông ấy nói rằng họ cần sự cho phép của cô. Nếu ông ấy không dùng từ “cho phép”, chưa biết chừng lần này cô đã không đến đó giảng bài. Từ “cho phép” ấy khiến cô mủi lòng. Những người khiếm thị muốn đọc sách của cô, họ xin cô cho phép làm lại cuốn sách của cô bằng một thứ ngôn ngữ chỉ họ mới hiểu được… Nghĩ đến đây cô thấy lòng lặng đi, liền đáp vội, “Được chứ.” Người thủ thư nói cuốn sách sẽ được hoàn thành vào tháng Mười một vì tháng này có “Ngày Chữ nổi”. Ông nói họ sẽ rất cảm kích nếu hôm đó cô có thể tới tham dự buổi lễ ký tặng sách. Cô tự hỏi sao mọi chuyện lại diễn ra như thế nhỉ, nhưng cô chẳng nói được gì hơn ngoài câu “Được chứ.” Cũng may bấy giờ mới đầu xuân nên cảm giác như tháng Mười một còn xa lơ xa lắc. Nhưng thời gian trôi đi, xuân qua, hạ tới, thu về, chẳng mấy chốc đã sang tháng Mười một. Và rồi ngày đó cũng đến.
Mọi việc trên thế gian đều có thể dự đoán được nếu ta suy nghĩ thật sâu sắc về chúng. Ngay cả những việc ta gọi là khác thường, nếu suy nghĩ thấu đáo thì chúng cũng chỉ là những việc đương nhiên xảy ra. Thường thường do ta không suy nghĩ kỹ nên mới gặp những chuyện ngoài ý muốn. Chuyến đi tới Thư viện chữ nổi và những sự kiện xảy ra ở đó đều là những việc có thể dự đoán được nếu cô bỏ thời gian quan tâm đến Thư viện chữ nổi ấy. Nhưng cô đã quá bận rộn suốt mùa xuân, mùa hạ, mùa thu. Ngay cả ngày tới Thư viện chữ nổi, cô cũng không nghĩ về những người mình sẽ gặp gỡ ở đó; cô chỉ lo trễ cuộc gặp lúc mười giờ. Cô bay chuyến tám giờ, đáp xuống sân bay thành phố P, vội vàng bắt taxi đến Thư viện chữ nổi rồi ngồi chờ trong phòng khách. Với sự giúp đỡ của một tình nguyện viên, ông giám đốc thư viện bước vào phòng khách và ngồi đối diện với cô. Ông giám đốc cảm ơn cô vì đã dành thời gian đến đây, ông tự giới thiệu và chìa tay ra. Cố che giấu sự căng thẳng, cô bắt tay ông giám đốc thư viện và vui vẻ cất tiếng chào ông. Bàn tay ông ấy thật mềm mại. Ông giám đốc thư viện trò chuyện về cuốn sách của cô cho tới tận khi diễn ra sự kiện. Cô mỉm cười gật đầu với người đàn ông khiếm thị đã đọc tác phẩm của cô, dù ông không thể nhìn thấy nụ cười và cái gật đầu của cô.
Hôm đó là Ngày Chữ nổi, ngày hội của họ. Khi cô bước vào trong hội trường, có khoảng 400 người đã ngồi ở đó, một số khác đang dò dẫm bước vào theo sự hướng dẫn của các tình nguyện viên. Có cả nam cả nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng không có trẻ em. Buổi lễ được bắt đầu, lần lượt một vài người trong ban tổ chức bước lên sân khấu tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu và chuyển lời cảm ơn. Một số người được trao giấy chứng nhận. Khi sách của cô xuất bản bằng chữ nổi được giới thiệu, cô bước lên sân khấu để nhận một cuốn. Ông giám đốc thư viện trao quyển sách cho cô, nó dày gấp hai lần quyển sách bình thường nhưng rất nhẹ. Cô nghe thấy tiếng vỗ tay, sau đó cô cầm quyển sách trên tay đi xuống chỗ ngồi. Buổi lễ vẫn tiếp tục. Khi ban tổ chức đang trao giải thưởng cho những người đọc được nhiều sách chữ nổi, cô mở quyển sách ra xem. Bỗng nhiên cô cảm thấy choáng váng, có vô số dấu chấm nhảy múa trên trang giấy trắng. Cô có cảm giác như thể mình bị rơi vào hố đen, như thể bị lăn xuống cầu thang vì bước hụt do mải nghĩ mông lung trong khi bản thân luôn cho rằng mình đã quá quen thuộc với cái cầu thang đó. Chữ nổi dàn trải ra trên giấy trắng, mỗi chữ là một loạt cái lỗ khắc bằng kim, những con chữ cô hoàn toàn không giải mã nổi. Cô nói với mẹ rằng cô giở qua trang thứ nhất, trang thứ hai, trang thứ ba rồi gấp quyển sách lại. Thấy mẹ đang rất chăm chú lắng nghe câu chuyện của mình, cô kể tiếp. Cuối buổi lễ, cô bước lên sân khấu đứng trước mọi người để nói về tác phẩm của mình. Cô đặt quyển sách trên bục rồi nhìn xuống mọi người, lưng cô cứng đơ ra. Đứng trước hơn bốn trăm người khiếm thị, cô lúng túng không biết nhìn vào đâu.
“Vậy con đã làm thế nào?” mẹ cô hỏi.
Cô nói rằng với cô năm mươi phút đó tưởng chừng như dài vô tận. Cô thuộc típ người thích nhìn thẳng vào mắt người đối diện trong khi nói chuyện, tùy theo cảm xúc trong ánh mắt của đối phương, cô sẽ quyết định nói hết chuyện hay bỏ dở giữa chừng. Trước một vài ánh mắt nào đó, những câu chuyện cô chưa từng kể với ai lại bỗng tuôn trào. Cô băn khoăn liệu mẹ có biết tính cô như vậy. Trước bốn trăm người khiếm thị cô không biết nhìn vào mắt ai và bắt đầu câu chuyện như thế nào. Trong số họ, có những đôi mắt đã nhắm lại, có những đôi mắt nửa nhắm nửa mở, có những đôi mắt ẩn sau cặp kính râm, có đôi mắt lại trừng trừng như thể nhìn xuyên thấu cả con người lẫn sự căng thẳng của cô. Trước những đôi mắt đang hướng lên sân khấu nhưng không thể nhìn thấy gì, cô trở nên im lặng. Cô phân vân liệu có ý nghĩa gì không khi nói về cuốn sách của mình trước những đôi mắt khiếm khuyết ấy. Nhưng sẽ không ổn nếu cô nói chuyện gì đó khác, kiểu như những giai thoại về cuộc sống. Cô nghĩ rằng mình không nên kể giai thoại cho họ nghe, mà họ nên kể cho cô những câu chuyện cuộc đời họ mới phải. Cảm thấy bế tắc, cô cầm micro lên hỏi mọi người, “Tôi nên kể chuyện gì với các bạn bây giờ?” Cả hội trường cười ầm lên. Có phải họ bật cười bởi vì họ nghĩ ý cô là cô có thể kể bất cứ chuyện gì? Hay họ cười để giúp cô rũ bỏ căng thẳng?
“Không phải cô tới để nói về tác phẩm của mình sao?” một người đàn ông trạc bốn mươi đề nghị. Đôi mắt của ông ta nhắm tịt lại dù đang chiếu thẳng vào cô. Vừa nhìn vào đôi mắt nhắm tịt của ông ta, cô bắt đầu kể về tác phẩm được chuyển sang chữ nổi của mình. Cô kể về động lực thôi thúc cô viết cuốn sách đó, những cảm xúc cô trải qua trong suốt thời gian sáng tác và những hy vọng cô dành cho cuốn sách sau khi nó hoàn thành. Cô rất ngạc nhiên. Họ say sưa lắng nghe lời cô kể hơn bất cứ ai cô đã từng gặp. Điệu bộ của họ cho cô thấy họ chăm chú lắng nghe câu chuyện của cô từng li từng tí. Có người gật gật đầu, có người duỗi chân ra trước, có người vươn lên dựa mình vào người ngồi phía trước. Tuy cô không thể giải mã được lấy một chữ trong ngôn ngữ của họ, nhưng họ đã đọc cuốn sách do cô viết, đưa ra những câu hỏi và chia sẻ cảm tưởng của bản thân. Cô nói với mẹ rằng hình như chưa bao giờ cô gặp ai biểu lộ tình cảm tốt đẹp đối với cuốn sách của cô đến như vậy. Mẹ cô nãy giờ chỉ im lặng nghe cô kể chuyện, cuối cùng mẹ lên tiếng, “Dù sao họ đã đọc sách của con.” Cả hai mẹ con cùng im lặng. Một lúc sau mẹ bảo cô tiếp tục đi. Cô kể tiếp. Khi cô ngừng lời, một người trong số họ giơ tay lên nói muốn hỏi cô một điều. Cô bảo ông ấy cứ hỏi. Ông ấy nói rằng dù khiếm thị nhưng sở thích của ông ấy là đi du lịch. Cô rất choáng váng. Một người mù có thể đi du lịch ở đâu? Ông ấy nói rằng cách đây khá lâu ông đã đọc một tác phẩm do chính cô viết lấy bối cảnh là Peru. Nhân vật trong cuốn truyện đó đã đến một nơi gọi là Machu Picchu, ở đó anh ta được chứng kiến cảnh đoàn tàu hỏa đi giật lùi. Sau khi đọc câu chuyện đó, ông mơ ước được đến Peru một lần để đi con tàu kỳ lạ ấy. Ông ấy hỏi cô đã trực tiếp đi trên con tàu đó chưa. Đó là tác phẩm cô đã viết từ mười năm trước. Cô – vốn có trí nhớ tồi đến mức thường xuyên mở cửa tủ lạnh rồi quên khuấy mất mình cần lấy thứ gì, cứ đứng như thế cho luồng khí mát trong tủ lạnh phả lên người cho đến khi cô đành từ bỏ và đóng cửa tủ lại – lúc này lại bắt đầu hào hứng kể về Peru, nơi cô đã đến trước khi viết cuốn sách ấy. Lima thủ đô của Peru, Cusco thành phố nổi tiếng từng được xem là rốn của vũ trụ. Trong buổi sáng đầu tiên ở Peru, cô tới ga San Pedro để đón tàu đi Machu Picchu, nhưng chuyến tàu đó cứ tiến lên rồi lại lùi lại cả chục lần rồi mới khởi hành được. Cô nói với mẹ rằng những địa danh và tên các dãy núi cô đã quên từ lâu bỗng nhiên lại tuôn ra. Cảm nhận được tình bằng hữu từ những đôi mắt chưa bao giờ nhìn thấy đó, những đôi mắt trông như có thể hiểu và thông cảm được với mọi thiếu sót của cô, cô tâm sự một điều cô chưa bao giờ chia sẻ về cuốn sách đó.
“Đó là cái gì?” mẹ cô hỏi.
“Con nói nếu cho con viết lại tác phẩm đó, có lẽ con sẽ không viết như thế.”
“Nói ra điều đó quan trọng lắm sao con?” mẹ cô hỏi lại.
“Vâng, vì như thế là con đang phủ nhận những thứ hiện có, mẹ ạ!” Cảm thấy cô đơn, cô nắm lấy bàn tay mẹ.
Mẹ nhìn cô chằm chằm trong bóng tối và nói, “Sao con phải giấu giếm những lời ấy? Con phải sống cho thật thoải mái, nói ra bất cứ điều gì mình cảm nhận chứ.” Rồi mẹ rút tay khỏi tay cô và xoa xoa lưng cô. Khi cô còn bé mẹ thường rửa mặt cho cô y như thế, với đôi bàn tay thô kệch này.
Mẹ khen, “Câu chuyện của con rất hay.”
“Con ư?”
Mẹ gật đầu và xác nhận, “Phải, chuyện con kể thú vị lắm.”
“Mẹ nghĩ chuyện đó hay à mẹ?”
“Ừ, mẹ thích lắm.”
Mẹ thích câu chuyện của mình ư? Cô thầm nghĩ, lòng đầy xúc động. Cô biết rằng câu chuyện của mình không thú vị đến thế; chỉ là cách nói chuyện của cô với mẹ đã thay đổi sau những trải nghiệm của cô ở Thư viện chữ nổi. Từ khi lên thành phố, cô lúc nào cũng nói chuyện với mẹ với thái độ cau có. Cô hay cãi trả mẹ, “Mẹ thì biết gì chứ?” Cô hay quở trách, “Sao mẹ là mẹ mà lại đi làm thế?” Cô cũng thường trả lời một cách lạnh lùng, “Mẹ biết chuyện đó làm gì?” Biết mẹ không còn hơi sức đâu để la mắng nên nếu mẹ hỏi, “Con đến đó làm gì vậy?” cô sẽ trả lời cụt lủn, “Vì con phải đến.” Thậm chí khi cô phải đi máy bay vì sách của cô được xuất bản ở nước khác hoặc cô cần ra nước ngoài dự hội thảo, nếu mẹ hỏi, “Con đến đó làm gì vậy?” cô cũng sẽ lấy giọng công việc để trả lời, “Bởi vì con có công có việc cần quan tâm mà mẹ.” Mẹ bảo cô đừng nên đi máy bay nữa. “Nếu tai nạn xảy ra sẽ có hơn hai trăm người cùng thiệt mạng đấy.” “Có việc thì vẫn phải đi chứ mẹ,” cô đáp gọn. Nếu mẹ hỏi, “Sao con nhiều việc thế?” Cô sẽ ủ rũ trả lời, “Thôi mà mẹ, con biết rồi.” Cô cảm thấy thật khó khăn khi nói chuyện của mình với mẹ. Những việc cô làm dường như không liên quan gì đến cuộc sống của mẹ.
Nhưng khi cô kể về cảm giác hoang mang lúc nhìn thấy quyển sách chữ nổi và nỗi hốt hoảng khi đứng trước hơn bốn trăm người khiếm thị, mẹ cô chăm chú lắng nghe như thể cơn đau đầu của mẹ đã tiêu tan. Lần cuối cùng cô tâm sự với mẹ về một chuyện gì đó xảy ra với mình là bao giờ? Nhiều năm nay, những cuộc nói chuyện giữa cô và mẹ đã trở nên hết sức đơn giản. Thậm chí hai mẹ con hiếm khi nói chuyện trực tiếp mà chỉ thường nói qua điện thoại. Câu chuyện của cô chủ yếu chỉ xoay quanh những việc như mẹ ăn gì, mẹ có khỏe không, bố dạo này ra sao, mẹ cẩn thận kẻo bị cảm, cô đã gửi tiền cho bố mẹ… Mẹ thì nói đến những việc như mẹ đã muối kim chi gửi lên thành phố, mẹ hay gặp ác mộng ban đêm, mẹ đã gửi gạo, gửi xì dầu cho cô, hay mẹ đã chế biến ích mẫu thảo gửi cho cô, thế nên cô đừng tắt điện thoại vì người đưa bưu phẩm sẽ gọi điện trước khi mang mấy gói đó đến.
Quyển sách vốn chỉ có một tập của cô khi chuyển sang chữ nổi lại thành ra bốn tập. Cầm cái túi giấy đựng mấy quyển sách đó, cô chào tạm biệt mọi người tại Thư viện chữ nổi, và cô vẫn còn hai tiếng trước chuyến bay về Seoul. Cô nhớ lại khi đang đứng trên sân khấu, để tránh những cặp mắt của họ, cô đã nhìn ra con đường đầy tuyết ngoài cửa sổ và thấy những con tàu lớn nhỏ đang buông neo ở bến cảng. Cô nghĩ có bến cảng ắt phải có chợ hải sản. Cô bắt taxi và bảo tài xế đưa cô ra chợ hải sản. Mỗi khi đến những thành phố khác, nếu có thời gian cô rất thích đi lòng vòng trong chợ để ngắm nghía mọi thứ. Dù là ngày giữa tuần nhưng chợ rất ồn ào đông đúc. Bên ngoài chợ, cô đứng xem hai ngư dân đang cắt khúc một con cá to đùng. Thấy con cá to quá, cô hỏi người bán hàng đó có phải là cá ngừ không. Người bán hàng trả lời đó là cá thái dương. Cô chợt nghĩ đến nhân vật nữ chính trong một tác phẩm văn học nào đó mà cô không nhớ nhan đề. Sinh ra ở một thành phố ven biển, cứ mỗi khi buồn phiền cô ấy lại tìm đến công viên đại dương đồ sộ và tráng lệ tại công viên trung tâm thành phố để trò chuyện với con cá thái dương đang bơi trong đó. Nhân vật đó thổ lộ với con cá thái dương rằng mẹ cô đã lấy hết số tiền tiết kiệm của cô rồi bỏ đi cùng một chàng trai trẻ đến thành phố khác. Trong suốt thời gian qua, cô ấy đã trách móc và oán giận mẹ nhưng thực lòng cô ấy vẫn rất nhớ mẹ. Cô ấy không nói được điều này với bất cứ ai, chỉ có thể nói cho con cá thái dương nghe. Cô băn khoăn không biết con cá trong truyện cổ giống con cá thái dương kia không? Thấy cái tên “thái dương” thật đặc biệt, cô bèn hỏi không biết đó có phải là tên thật của loài cá này không. Người bán hàng nói mọi người ở đây còn gọi nó là Mola mola. Ngay khi nghe thấy từ Mola mola, tâm trạng căng thẳng nặng nề khi ở Thư viện chữ nổi trong cô mới được giải tỏa. Vì sao cô lại nghĩ đến mẹ khi đang đi tha thẩn giữa những quầy hải sản tươi sống giá rẻ hơn ba lần so với ở Seoul bày bán đủ chủng loại, nào là bạch tuộc sống đầu to hơn đầu người và bào ngư tươi rói, nào là cá bao kiếm, cá thu và cua biển? Có phải chính con cá thái dương đã gợi cô nghĩ đến mẹ khi đi trong chợ hải sản? Cô nhớ lại cảnh cùng mẹ làm cá đuối ngoài giếng để chuẩn bị cho lễ cúng tổ tiên vào tất niên. Bàn tay mẹ lạnh cóng khi bóc lớp da đóng băng dính chặt cứng quanh mình con cá. Cô dừng lại trước cửa hàng có treo một con bạch tuộc đã luộc chín to bằng thân một đứa trẻ và mua một con bạch tuộc còn sống với giá mười lăm nghìn uôn. Cô còn mua thêm mấy con bào ngư vì nghĩ dù là bào ngư nuôi nhưng chúng chỉ ăn tảo bẹ biển và tảo nâu biển. Khi cô nói sẽ mang về tận Seoul, người bán hàng đề nghị cho tất cả vào một hộp giữ lạnh có giá hai nghìn uôn.
Rời chợ hải sản với chiếc hộp đựng con bạch tuộc còn sống và bào ngư trên tay, cô nhận ra vẫn còn lâu mới đến giờ máy bay cất cánh. Một tay cầm túi giấy đựng sách, một tay xách chiếc hộp, cô gọi taxi và bảo tài xế đưa cô ra bãi biển. Chỉ ba phút sau xe đã đến nơi. Bãi biển vào tháng Mười một vắng tanh, chỉ có hai cặp tình nhân đang đi dạo. Bãi cát trải dài mênh mông; khi đi về phía mép nước cô suýt ngã hai lần. Cô ngồi xuống bãi cát phẳng lì nhìn ra mặt biển bao la. Một lát sau cô ngoảnh lại nhìn về phía các dãy cửa hàng và tòa nhà chung cư hướng ra biển bên kia đường. Cô nghĩ vào những đêm hè nóng bức, mọi người ở đây hẳn đều xuống biển nô đùa thỏa thích rồi mới về nhà tắm lại. Trong lúc ngồi ngắm biển, cô lấy một cuốn sách chữ nổi trong túi giấy ra ngồi đọc một cách vô thức. Những chấm trắng khắc sâu vào các trang cứ lấp lánh dưới ánh nắng tháng Mười một.
Đưa tay lần theo những con chữ nổi không sao giải mã được dưới ánh mặt trời, cô ngẫm nghĩ xem ai là người đầu tiên dạy chữ ình. Đúng rồi, chính là anh trai thứ của cô. Hôm đó, hai anh em cùng nằm úp sấp trên sàn ngôi nhà cũ. Khi ấy, mẹ cũng ngồi cạnh hai anh em cô. Anh thứ của cô rất hiền và chịu nghe lời mẹ nhất trong số mấy anh em cô. Mẹ đã yêu cầu anh dạy chữ cho cô nên anh không thể làm trái lời mẹ. Anh tỏ vẻ uể oải, hướng dẫn cô viết đi viết lại các nguyên âm, phụ âm và số thứ tự trong tiếng Hàn. Cô cầm bút viết chữ bằng tay trái vì đó là tay thuận của cô. Cứ mỗi lần nhìn thấy cô làm vậy, anh lại lấy cây thước tre to đập vào mu bàn tay cô. Anh làm việc đó cũng theo lệnh của mẹ. Mặc dù cô thuận cả tay trái và chân trái, mẹ thường nói rằng nếu cô cứ dùng tay trái và chân trái thì sẽ có rất nhiều điều trong cuộc sống khiến cô phải rơi nước mắt. Trong bữa ăn, nếu cô dùng tay trái để xới cơm, mẹ sẽ giật lấy muôi mà ấn vào tay phải của cô. Nếu cô vẫn tiếp tục dùng tay trái, mẹ sẽ giằng muôi vụt vào tay trái của cô rồi mắng, “Tại sao con không nghe lời mẹ thế!” Những lần đó tay trái của cô cứ sưng phồng lên. Tuy nhiên, hễ thấy anh trai không để ý là cô lại vội vội vàng vàng chuyển cây bút chì sang tay trái và vẽ hai hình tròn chồng lên nhau tạo thành số 8, rồi nhanh chóng chuyển cây bút chì sang tay phải. Nhưng khi nhìn số 8 do cô viết, anh thứ biết ngay rằng cô vừa chồng hai vòng tròn lên nhau bằng tay trái thế nên anh bắt cô chìa hai tay ra rồi lấy cây thước tre đánh vào lòng bàn tay cô. Mỗi khi anh thứ dạy cô học chữ, mẹ nghĩ cách ngồi khâu tất hay bóc tỏi trên sàn nhà để xem cô nguệch ngoạc. Cô còn nhớ khuôn mặt mẹ rạng rỡ như hoa bạc hà khi thấy cô viết được tên cô và tên mẹ, và cuối cùng còn có thể lắp bắp đọc sách trước khi đến tuổi tới trường. Giờ đây, hình ảnh khuôn mặt ấy đang hiện lên trên những dòng chữ nổi mà cô không sao đọc được. Cô đứng dậy khỏi bãi cát trên bờ biển. Cô vội vàng rảo bước quay lại con đường mà không kịp phủi những hạt cát còn dính đầy quần áo. Cô quyết định không bay về Seoul nữa mà bắt taxi đến thành phố L để đón tàu về thị trấn J thăm mẹ. Vừa đi cô vừa nghĩ đã gần hai mùa rồi cô chưa nhìn thấy gương mặt mẹ.
Hình ảnh lớp học ngày xưa bỗng hiện lên trong đầu cô.
Đó là ngày mà hơn sáu mươi đứa trẻ trong lớp phải điền đơn xin vào trung học bởi nếu hôm đó mà không viết đơn thì sẽ không được vào trung học. Cô là một trong số mấy đứa không chịu điền đơn. Khi ấy cô không hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô không vào cấp hai. Cô đang cảm thấy day dứt trong lòng. Đêm hôm trước mẹ đã la hét om sòm với bố trong khi bố đang đau ốm nằm bẹp trên giường. Mẹ cô quát ầm lên với bố, “Nhà mình có của ăn của để gì đâu, không cho con gái đi học thì làm sao nó tồn tại được trên đời.” Bố cô ngồi dậy và đi khỏi nhà, mẹ tức giận nhấc cái bàn ăn trên nền nhà ném ra ngoài sân. Mẹ hét lên, “Có trụ cột gia đình để mà làm gì khi ông không cho nổi con mình đi học? Tôi sẽ đập phá tất tần tật!” Cô mong sao mẹ sẽ nguôi giận vì dù không được đi học cô cũng thấy không sao. Chưa nguôi cơn giận sau khi ném cái bàn ra ngoài sân, mẹ mở cửa nhà kho rồi lại đóng sầm vào, đưa tay giật hết đống quần áo trên dây phơi xuống, vò nhàu rồi vứt tung tóe khắp mặt đất. Rồi mẹ đi đến bên cô khi đó đang ngồi co rúm lại bên thành giếng, mẹ cởi chiếc khăn đang đội trên đầu, chìa ra bảo cô xì mũi vào đấy. Cô ngửi thấy mùi mồ hôi lâu ngày khắm khú trong cái khăn lúc nào mẹ cũng quấn trên đầu. Cô không muốn xì mũi, nhất là vào cái khăn nặng mùi đó. Nhưng mẹ vẫn bảo cô xì bằng hết nước mũi ra. Thấy cô ngập ngừng, mẹ bảo cô xì mũi thì cô mới không bật khóc. Chắc nãy giờ cô đứng nhìn mẹ với vẻ mặt như chực khóc. Bảo cô xì mũi là cách mẹ nói cô đừng có khóc. Chẳng từ chối nổi, cô đành phải xì mũi vào cái khăn. Nước mũi của cô quện lẫn mùi mồ hôi của mẹ. Mẹ vẫn đội đúng chiếc khăn ấy đi đến trường. Sau khi mẹ trao đổi gì đó với cô giáo chủ nhiệm, cô giáo đưa tờ đơn xin học tới cho cô. Vừa viết tên vào tờ đơn cô vừa ngẩng đầu lên nhìn ra ngoài lớp học và thấy mẹ đang quan sát cô qua cửa kính ở hành lang. Khi bắt gặp ánh mắt của cô, mẹ cởi chiếc khăn trên đầu ra vẫy vẫy và cười rất tươi. Gần tới hạn đóng học phí cho cô, chiếc nhẫn vàng đeo ở ngón giữa tay trái vốn là món đồ trang sức duy nhất của mẹ đã biến mất. Chỉ có một khoanh tròn trên ngón tay hằn lên do nhiều năm đeo nhẫn còn sót lại.
Cơn đau đầu thường xuyên hành hạ mẹ.
Trong chuyến về thăm nhà đó, lúc nửa đêm khi thức giấc vì cơn khát, cô nhìn thấy những quyển sách của cô hiện ra lờ mờ trong bóng tối. Cô nhớ lại trước khi cùng bạn trai đến Nhật Bản nhân kỳ nghỉ phép dài của anh và ở lại đó một năm với anh, vấn đề lớn nhất đối với cô là bảo quản sách. Cân nhắc mãi, cuối cùng cô quyết định gửi hầu hết số sách cô có được trong mấy năm qua về nhà mẹ. Ngay khi nhận đống sách của cô, mẹ đã dọn sạch một phòng và bày sách trong đó. Từ đó cô không làm sao mang những cuốn sách ấy đi được nữa. Khi về thăm nhà, cô thường vào căn phòng ấy để thay quần áo hoặc để đặt túi xách. Nếu cô ngủ lại qua đêm, mẹ sẽ mang chăn chiếu của cô vào trong đó.
Khi uống nước xong và đang quay lại phòng, thấy băn khoăn không biết mẹ có ngủ được không, cô rón rén bước đến nhẹ nhàng mở cửa phòng mẹ. Hình như trong chăn không có người. Cô khẽ cất tiếng gọi mẹ nhưng không có tiếng trả lời. Cô dò tìm công tắc trên tường và bật đèn lên. Mẹ không có trong phòng. Cô bật điện trong phòng khách rồi mở cửa nhà vệ sinh nhìn vào, nhưng mẹ cũng không có ở trong đó. “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Cô vừa gọi vừa mở cửa trước bước ra ngoài sân. Làn gió ban mai lùa vào trong áo cô. Cô bật điện ngoài sân và liếc nhanh về phía tấm phản gỗ trong nhà kho. Mẹ cô ở đó. Cô lao xuống bậc thềm chạy nhanh qua sân và đến bên mẹ. Mẹ cau mày nhăn nhó y như chiều hôm qua, ngủ lịm đi, một tay đặt lên trán. Mẹ để chân trần. Mười ngón chân đang co quắp lại vì lạnh. Cô có cảm giác những câu chuyện cô chia sẻ với mẹ trong khi đi dạo quanh sân sau bữa cơm tối giản dị đã vỡ vụn. Đó là một buổi sáng sớm tháng Mười một. Cô vào nhà lấy chăn ra đắp ẹ. Cô còn mang theo đôi tất và đi vào đôi bàn chân đã lạnh cóng của mẹ. Cô cứ ngồi bên cạnh mẹ cho đến khi mẹ tỉnh dậy.
Nghĩ cách kiếm thêm tiền ngoài làm ruộng, mẹ mang chiếc khuôn làm mạch nha bằng gỗ vào để trong kho. Mẹ lấy toàn bộ số lúa mì thu hoạch được từ ngoài đồng ra xay nhuyễn, hòa với nước rồi đổ vào khuôn làm mạch nha. Khi mạch nha lên men, cả ngôi nhà sực mùi của thứ đó. Không ai thích cái mùi ấy nhưng mẹ bảo đó là mùi của tiền. Trong làng có một nhà làm đậu phụ, khi mẹ mang mạch nha lên men đến cho họ, họ sẽ bán cho nhà máy bia rồi đưa tiền ẹ. Mẹ cất số tiền đó vào trong một cái bát sứ màu trắng, sau đó chồng sáu bảy cái bát lên trên rồi đặt lên nóc chạn bát. Cái bát sứ ấy trở thành ngân hàng của mẹ. Mẹ cất tất cả số tiền kiếm được vào trong đó. Mỗi lần cô cầm giấy thông báo nộp tiền ở trường về, mẹ lại lấy số tiền dành dụm để trong chiếc bát sứ ra, đếm đếm rồi giúi vào tay cô.