Biến Động - Jared Diamond - Dẫn nhập
- Home
- Biến Động - Jared Diamond
- Dẫn nhập - Những tàn dư của vụ hỏa hoạn ở hộp đêm Cocoanut Grove
Hai câu chuyện – Biến cố là gì? – Biến cố cá nhân và biến cố quốc gia – Cuốn sách này viết về gì và không viết về gì – Mục tiêu của cuốn sách
Ở một hay những thời điểm nào đó trong đời mình, hầu hết chúng ta đều phải trải qua một biến động hay biến cố riêng tư mà có khi xử lý được, có khi không, nhưng lại làm thay đổi cả cuộc đời. Diễn rộng ra, các quốc gia cũng đều kinh qua những biến cố như vậy, và cũng có khi xử lý được, có khi không, nhưng lại làm thay đổi cả đất nước. Đã có nhiều nghiên cứu và thông tin mang tính giai thoại, do các nhà tâm lý trị liệu đưa ra, về phương cách xử lý những biến cố cá nhân. Vậy những đúc kết đó có giúp chúng ta hiểu được phương cách xử lý những biến cố quốc gia hay không?
Để minh họa cho những biến cố cá nhân hay quốc gia, tôi sẽ bắt đầu với hai câu chuyện của chính bản thân mình. Người ta thường cho rằng những ký ức lâu bền của trẻ em được lưu giữ sớm nhất là ở khoảng độ tuổi lên bốn, dù trẻ nhỏ vẫn lưu giữ những ký ức mờ nhạt về các sự kiện trước đó. Tình trạng chung đó có thể rơi vào trường hợp của tôi, vì ký ức sớm nhất tôi lưu giữ được là vụ hỏa hoạn ở hộp đêm Cocoanut Grove ở Boston, xảy ra ngay sau sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mặc dù (may thay) không có mặt trong vụ hỏa hoạn đó, nhưng tôi được nghe gián tiếp từ những lời kể đầy kinh hoàng của ông bố làm bác sĩ.
Vào ngày 28 tháng 11 năm 1942, một đám cháy bùng phát và lan nhanh tại một hộp đêm chật kín người ở Boston tên là Cocoanut Grove (người chủ hộp đêm đặt như vậy) vốn chỉ có duy nhất một lối thoát hiểm nhưng đã bị chặn. Tổng cộng có 492 người chết cùng hàng trăm người khác bị thương, do ngạt thở, hít phải khói, bị dẫm đạp hay bị bỏng (Ảnh 0.1). Đội ngũ bác sĩ và bệnh viện ở Boston đều quá tải – không chỉ do những nạn nhân bị thương hay sắp chết do vụ hỏa hoạn mà còn do những nạn nhân về mặt tâm lý: những thân nhân quẫn trí vì vợ, chồng, con cái, anh chị em của mình tử vong một cách khủng khiếp; và cả những người sống sót sau vụ cháy bị sang chấn tâm lý vì mặc cảm tội lỗi khi được sống trong khi hàng trăm vị khách phải chết. Cho đến 10:15 tối, cuộc sống của họ vẫn bình thường, chỉ tập trung vào dịp nghỉ cuối tuần đúng lễ Tạ ơn, một trận bóng bầu dục và ngày nghỉ phép của lính tráng thời chiến. Nhưng đến 11:00 tối, hầu hết các nạn nhân đều đã chết, và cuộc sống của những người thân cũng như người còn sống rơi vào khủng hoảng. Con đường đời của họ đã bị trật bánh. Họ cảm thấy hổ thẹn do mình còn sống trong khi người thân yêu lại chết đi. Thân quyến những người chết đã mất đi trụ cột của mình. Vụ hỏa hoạn này làm lay chuyển niềm tin vào một thế giới công bình cho không chỉ những người sống sót mà cả người dân Boston ở xa đám cháy (kể cả tôi, lúc đó mới năm tuổi). Những người bị trừng phạt không phải là kẻ hư hỏng hay xấu xa: họ chỉ là những con người bình thường, bị chết không phải do lỗi lầm của họ.
Một số người sống sót và những người thân vẫn còn bị sang chấn tinh thần trong phần đời còn lại. Một số tự vẫn. Nhưng hầu hết, sau một vài tuần dằn vặt dữ dội do chưa thể chấp nhận nỗi mất mát của mình, đã bắt đầu bớt đau buồn, xem xét lại bản thân, tạo dựng lại cuộc đời và thấy rằng không phải mọi thứ trong thế giới này đều đã bị hủy hoại. Nhiều người bị mất vợ hoặc chồng trong vụ này đã tái hôn. Dù vậy, ngay cả ở những trường hợp tốt nhất, mãi nhiều thập niên sau họ vẫn là những mảnh ghép giữa căn tính mới hình thành sau vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove và căn tính cũ trước khi đám cháy xảy ra. Trong suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ thường xuyên có cơ hội áp dụng phép ẩn dụ về “mảnh ghép” đối với những cá nhân và quốc gia mà các yếu tố khác hẳn nhau cùng tồn tại một cách khó chịu.
Vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove cung cấp một ví dụ khắc nghiệt về biến cố cá nhân. Nhưng sự khắc nghiệt này chỉ xảy ra với một số lượng lớn nạn nhân cùng lúc – trên thực tế, có quá nhiều nạn nhân bị kích động bởi đám cháy đòi hỏi phải có những liệu pháp mới trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, như chúng ta sẽ thấy ở Chương 1. Nhiều người trong chúng ta từng trực tiếp trải nghiệm bi kịch cá nhân trong đời sống riêng, hay gián tiếp qua người thân hoặc bạn bè. Tuy nhiên, những thảm kịch như vậy không chỉ nhằm vào một nạn nhân và gây đau đớn cho họ, mà còn cho cả bạn bè của người đó, như trường hợp vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove đối với những người thân quen của 492 nạn nhân.
Bây giờ, để so sánh, đây là một ví dụ về tầm biến cố quốc gia. Tôi sống ở Anh vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, đúng vào thời điểm đất nước này đang trải qua một biến cố quốc gia tiệm tiến, mặc dù cả tôi và những người bạn Anh đều không thấy rõ điều đó. Nước Anh vốn dĩ đứng đầu thế giới về khoa học, được ban tặng một lịch sử văn hóa phong phú, đậm chất Anh đầy tự hào và độc đáo, đồng thời vẫn còn lưu giữ những hồi ức về việc từng sở hữu hạm đội lớn nhất thế giới, sự thịnh vượng và đế chế trải rộng nhất trong lịch sử. Thật không may, đến thập niên 1950 thì Liên hiệp Anh lại bị chảy máu kinh tế, mất đi đế chế và quyền lực, gặp xung đột về vai trò của mình ở châu Âu, và phải đấu tranh với những khác biệt giai tầng lâu đời và làn sóng nhập cư gần đây. Trong giai đoạn 1956-1961, mọi thứ lên đến đỉnh điểm khi Anh thải hồi mọi tàu chiến còn lại của mình, vướng vào các cuộc bạo loạn sắc tộc đầu tiên, phải trao trả độc lập cho các thuộc địa ở châu Phi, đồng thời chứng kiến Khủng hoảng Suez làm phơi bày thất bại nhục nhã về khả năng hành động độc lập của một cường quốc thế giới. Những người bạn Anh của tôi phải gắng hiểu về những sự kiện đó để giải thích chúng cho một người khách Mỹ như tôi. Chúng làm thổi bùng những tranh luận sôi nổi trong dân chúng và các chính trị Anh về bản sắc và vai trò của nước này.
Đến nay, sau 60 năm, nước Anh vẫn là một mảnh ghép giữa bản sắc mới và bản sắc cũ của nó. Nước Anh đã rũ bỏ đế chế của mình để trở thành một xã hội đa sắc tộc, chấp nhận một nhà nước phúc lợi và trường học chất lượng cao do chính phủ điều hành để giảm trừ sự khác biệt giai cấp. Nước này giờ đây không còn giành lại được sự thống trị về hải quân và kinh tế trên thế giới và hiển nhiên vẫn còn tồn tại mâu thuẫn (như vụ Brexit) về vai trò của họ ở châu Âu. Nhưng Anh vẫn nằm trong số sáu quốc gia giàu nhất thế giới, vẫn có một nền dân chủ nghị viện theo thể chế quân chủ lập hiến, vẫn là một đất nước hàng đầu về khoa học và công nghệ và vẫn sử dụng đồng bảng Anh chứ không phải đồng euro.
Hai câu chuyện trên minh họa cho chủ đề của cuốn sách này. Biến cố, và những áp lực phải thay đổi, đe dọa đến những cá nhân và nhóm người ở đủ cấp độ, từ những con người đơn lẻ, đến các nhóm, doanh nghiệp, quốc gia, và trên toàn thế giới. Biến cố có thể phát sinh từ những áp lực bên ngoài, chẳng hạn như một người bị bạn đời bỏ rơi hoặc trở thành góa bụa, hay một quốc gia bị đe dọa hoặc tấn công bởi một quốc gia khác. Ngoài ra, biến cố có thể phát sinh từ những áp lực bên trong, chẳng hạn như một người bị bệnh hoặc một quốc gia gánh chịu bất ổn xã hội. Đối phó thành công với áp lực bên ngoài hoặc bên trong đòi hỏi sự thay đổi có chọn lọc. Điều này đúng cho cả quốc gia cũng như cá nhân.
Từ khóa ở đây là “chọn lọc.” Việc thay đổi hoàn toàn và loại bỏ mọi thứ về căn tính trước đó là điều bất khả và bất cầu đối với những cá nhân hoặc quốc gia. Thách thức đối với các quốc gia cũng như cá nhân đang gặp biến cố là tìm ra được phần nào trong căn tính của họ đã vận hành tốt không cần thay đổi và phần nào không còn vận hành cần phải thay đổi. Cá nhân hay quốc gia nào đang chịu áp lực thì phải đánh giá một cách trung thực về khả năng và giá trị của mình. Họ phải quyết định những gì của chính mình vẫn vận hành và vẫn phù hợp với ngay cả dưới các hoàn cảnh đã thay đổi để lưu giữ lại. Ngược lại, họ cần đủ dũng khí để nhận ra những gì phải thay đổi để đối phó với tình huống mới. Điều đó đòi hỏi các cá nhân hoặc quốc gia phải tìm giải pháp mới phù hợp với khả năng và với phần còn lại của chính họ. Đồng thời, họ phải phân định ranh giới và khoanh rõ những yếu tố nào là quan trọng đối với căn tính của mình đến mức khước từ việc thay đổi chúng.
Những điều đã nêu nằm trong những tương đồng giữa cá nhân và quốc gia liên quan đến biến cố. Nhưng cũng có những khác biệt rõ ràng mà chúng ta phải thừa nhận.
Một điểm khởi đầu thuận tiện là từ biến cố trong tiếng Anh “crisis” bắt nguồn từ danh từ tiếng Hy Lạp “krisis” và động từ “krino,” có những nét nghĩa sau: “tách rời,” “quyết định,” “vạch ra sự khác biệt” và “bước ngoặt.” Do đó, người ta có thể nghĩ biến cố là một thời điểm sự thật: một bước ngoặt khi hoàn cảnh trước và sau “thời điểm” đó khác biệt “nhiều hơn” so với trước và sau “hầu hết” các thời điểm khác. Tôi đặt các từ “thời điểm,” “nhiều hơn” và “hầu hết” trong ngoặc kép vì đó là một vấn đề thực tiễn để xác định thời điểm này ngắn ngủi đến thế nào, những điều kiện thay đổi khác nhau ra sao và mức độ hiếm hoi hơn của nó so với hầu hết các thời điểm khác để trở thành một bước ngoặt mà chúng ta có thể gắn cho nó cái nhãn “biến cố” thay vì chỉ là một sự kiện nhỏ nhặt hay một tiến trình thay đổi tự nhiên tiệm tiến.
Bước ngoặt thể hiện một thách thức. Nó tạo áp lực để đưa ra những phương pháp xử lý mới, khi các phương pháp trước đây chứng tỏ không phù hợp để giải quyết thách thức. Nếu một cá nhân hoặc quốc gia quả thực nghĩ ra các phương pháp đối phó mới và tốt hơn, thì chúng ta cho rằng biến cố đã được giải quyết thành công. Nhưng như sẽ thấy ở Chương 1, sự khác biệt giữa thành công và thất bại trong việc giải quyết biến cố thường không rõ rệt – thành công có thể chỉ một phần nào, có thể không kéo dài mãi mãi, và vấn nạn tương tự có thể lặp lại. (Hãy nghĩ về việc Liên hiệp Anh “giải quyết” vai trò thế giới của họ bằng cách gia nhập Liên minh Châu Âu vào năm 1973 rồi sau đó, vào năm 2017, lại bỏ phiếu cho việc rời khỏi Liên minh Châu Âu.)
Bây giờ chúng ta minh họa cho vấn đề thực tiễn đó như sau: một bước ngoặt phải ngắn ngủi, quan trọng và hiếm hoi đến mức nào mới chứng thực cho việc sử dụng thuật ngữ “biến cố”? Trong một đời người hay một thiên niên kỷ lịch sử khu vực, việc gán cho những gì xảy ra là một “biến cố” có thường được sử dụng? Những câu hỏi trên đều có nhiều đáp án để lựa chọn; những đáp án khác nhau lại chứng tỏ sự hữu ích cho các mục đích khác nhau.
Một câu trả lời giới hạn thuật ngữ “biến cố” trong những khoảng thời gian rất dài và những biến động rất hiếm gặp và kịch tính: chẳng hạn, chỉ một vài lần trong đời đối với một cá nhân, và chỉ vài thế kỷ cho một quốc gia. Chẳng hạn, một nhà sử học thời La Mã cổ đại chỉ có thể áp dụng từ “biến cố” cho ba sự kiện sau khi nền Cộng hòa La Mã thành lập vào khoảng năm 509 trước Công nguyên (TCN): hai cuộc chiến tranh đầu tiên với Carthage (264-241 và 218-201 TCN), việc đế chế thay thế chính phủ cộng hòa (khoảng năm 23 TCN), và những cuộc xâm lăng man rợ dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã phương Tây (khoảng năm 476). Tất nhiên, một nhà sử học La Mã không xem mọi sự kiện khác trong lịch sử La Mã giữa năm 509 TCN và năm 476 là không xứng đáng được đề cập, nhưng ông ta chỉ dành thuật ngữ “biến cố” cho ba sự kiện đặc biệt đó.
Ở cực ngược lại, đồng nghiệp của tôi ở Đại học California, Los Angeles là David Rigby cùng các cộng sự Pierre-Alexandre Balland và Ron Boschma đã công bố một nghiên cứu xuất sắc về “các biến cố công nghệ” ở các thành phố Mỹ, mà họ định nghĩa về mặt vận hành là những thời kỳ suy thoái liên tục trong các ứng dụng bằng sáng chế, với thuật ngữ “duy trì liên tục” được định nghĩa về mặt toán học. Theo những định nghĩa đó, họ thấy rằng trung bình cứ mỗi 12 năm một thành phố Mỹ đều trải qua một biến cố công nghệ, mà biến cố như thế trung bình kéo dài trong bốn năm, và một thành phố trung bình của Mỹ lại rơi vào tình trạng biến cố công nghệ khoảng ba năm trong mỗi thập niên. Họ thấy rằng định nghĩa này hiệu quả để hiểu một câu hỏi đem lại nhiều lợi ích thực tiễn: điều gì cho phép một số chứ không phải các thành phố khác của Mỹ tránh được biến cố công nghệ theo định nghĩa đó? Nhưng một nhà sử học La Mã sẽ gạt bỏ các sự kiện do David và các đồng nghiệp của ông nghiên cứu và cho rằng chúng chỉ là những sự cố nhỏ nhặt ngắn ngủi, trong khi David và các đồng nghiệp của ông sẽ phản bác rằng nhà sử học La Mã chỉ đề cập đến ba sự kiện trong khi lại bỏ qua mọi thứ xảy ra trong suốt 985 năm lịch sử của Đế quốc La Mã.
Quan điểm của tôi là người ta có thể định nghĩa “biến cố” theo những cách khác nhau theo những tần suất, thời lượng và quy mô tác động khác nhau. Người ta có thể nghiên cứu một cách ích dụng cho cả những biến cố lớn hiếm hoi hoặc những biến cố nhỏ thường xuyên. Trong cuốn sách này, thang thời gian mà tôi áp dụng dao động từ vài thập niên đến một thế kỷ. Tất cả các quốc gia được đề cập đều đã trải qua cái mà tôi coi là một “biến cố lớn” trong suốt cuộc đời mình. Điều đó không phải để phủ nhận rằng tất cả những biến cố này cũng kinh qua nhiều bước ngoặt nhỏ hơn.
Đối với các biến cố cá nhân và biến cố quốc gia, chúng ta thường tập trung vào một khoảnh khắc đơn giản của sự thật: chẳng hạn, ngày mà một người vợ nói với chồng mình rằng cô ấy đang đệ đơn ly hôn; hay (đối với lịch sử Chile) ngày 11 tháng 9 năm 1973, khi quân đội Chile lật đổ chính phủ dân chủ Chile khiến tổng thống nước này phải tự sát. Một vài biến cố thực sự xảy ra không báo trước, chẳng hạn như trận sóng thần ở Sumatra vào ngày 26 tháng 12 năm 2004 bất ngờ giết chết 200.000 người, hay cái chết của người anh em họ tôi khi còn ở độ tuổi thanh xuân khi xe hơi của anh bị một chiếc xe lửa nghiền nát ở giao lộ, để lại vợ góa và bốn đứa con côi. Nhưng hầu hết các biến cố cá nhân cũng như biến cố quốc gia đều là đỉnh điểm của những thay đổi dai dẳng kéo dài trong nhiều năm: chẳng hạn, một cặp vợ chồng ly hôn sau khi vấp phải những khó khăn kéo dài trong hôn nhân, hay những khó khăn chính trị và kinh tế của đất nước Chile. “Biến cố” là một biểu hiện bất ngờ, hay một hành động diễn ra đột ngột, của những áp lực đã hình thành trong một thời gian dài. Chân lý này đã được Thủ tướng Úc Gough Whitlam, người (như chúng ta sẽ thấy trong Chương 7) đưa ra một chương trình khẩn cấp bao gồm những thay đổi dường như thiết yếu trong 19 ngày vào tháng 12 năm 1972, nhưng ông lại cố tình giảm nhẹ những cải cách của mình, cho đây chỉ là một “sự ghi nhận về những gì đã xảy ra.”
Những quốc gia không hẳn giống với những cá nhân: chúng khác với cá nhân theo nhiều cách. Tuy nhiên, tại sao những biến cố quốc gia lại được soi rọi thông qua lăng kính biến cố cá nhân? Và những ưu thế của phương pháp tiếp cận này là gì?
Một ưu thế mà tôi thường gặp khi thảo luận về các biến cố quốc gia với bạn bè và sinh viên chính là những biến cố cá nhân quen thuộc và dễ hiểu hơn đối với những người không phải là chuyên gia sử học. Do đó, góc nhìn về biến cố cá nhân giúp người đọc không chuyên dễ dàng hơn khi “tiếp cận” các biến cố quốc gia và để hiểu được sự phức tạp của chúng.
Một ưu thế khác là nghiên cứu về các biến cố cá nhân tạo ra một lộ trình gồm hàng tá yếu tố giúp chúng ta hiểu được các kết quả khác nhau. Những yếu tố này cung cấp một khởi điểm hữu ích để đưa ra một bản đồ các yếu tố tương ứng nhằm hiểu được kết quả khác nhau của các biến cố quốc gia. Chúng ta sẽ thấy rằng một số yếu tố có thể chuyển đổi thẳng từ biến cố cá nhân sang biến cố quốc gia. Chẳng hạn, những cá nhân gặp biến cố thường nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè, giống như các quốc gia đang gặp biến cố có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ các quốc gia đồng minh. Cá nhân gặp biến cố có thể rập khuôn các giải pháp theo cách mà họ thấy các cá nhân khác giải quyết các biến cố tương tự; các quốc gia gặp biến cố cũng có thể vay mượn và mô phỏng các giải pháp mà những quốc gia khác, phải đối mặt với các vấn nạn tương tự, đã đưa ra. Cá nhân gặp biến cố có thể tìm được sự tự tin khi vượt qua biến cố trước đó; các quốc gia cũng thế.
Đó là một trong những mối tương đồng đơn giản. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng một số yếu tố làm sáng tỏ kết quả của các biến cố cá nhân, trong khi không thể chuyển đổi thẳng sang các biến cố quốc gia, vẫn đóng vai trò là phép ẩn dụ hữu ích cho thấy các yếu tố liên quan đến biến cố quốc gia. Chẳng hạn, các nhà trị liệu thấy thiết thực khi định nghĩa một phẩm chất cá nhân bằng thuật ngữ “sức mạnh bản ngã,” trong khi đó, quốc gia không có sức mạnh bản ngã về mặt tâm lý, nhưng khái niệm trên lại gợi ra một khái niệm tương tự quan trọng đối với quốc gia, gọi là “căn tính quốc gia.” Tương tự như thế, cá nhân thường cảm thấy tự do chọn lựa phương cách giải quyết biến cố với giới hạn trong phạm vi những ràng buộc thực tế, chẳng hạn như trách nhiệm chăm sóc con trẻ hay nhu cầu nghề nghiệp. Tất nhiên các quốc gia không bị giới hạn bởi trách nhiệm chăm sóc con trẻ hay nhu cầu nghề nghiệp, nhưng chúng ta sẽ thấy các quốc gia cũng phải chịu những giới hạn về tự do chọn lựa vì những lý do khác, chẳng hạn như những ràng buộc về mặt địa chính trị và sự thịnh vượng của đất nước.
Việc đối chiếu với biến cố cá nhân cũng giúp nêu bật những đặc trưng rõ nét hơn của các biến cố quốc gia còn thiếu những dữ liệu tương tự với biến cố cá nhân. Một trong số những đặc trưng khác biệt này chính là việc quốc gia thì có nhà lãnh đạo, nhưng cá nhân lại không có; do đó, những câu hỏi về vai trò lãnh đạo đối với biến cố quốc gia thường được đặt ra, nhưng với biến cố cá nhân thì không. Từ trước đến nay, những tranh biện dai dẳng không ngớt trong giới sử học về việc có thật là những lãnh đạo xuất chúng có thể thay đổi tiến trình lịch sử (dưới góc nhìn lịch sử là những “Nhân vật vĩ đại”), hay liệu kết quả lịch sử có giữ nguyên không nếu thay người lãnh đạo. (Ví dụ như Thế chiến II có nổ ra hay không nếu như vụ tai nạn xe hơi vào năm 1930 giết chết Hitler, thay vì chỉ suýt gây ra cái chết của ông ta?) Các quốc gia đều có thể chế chính trị và kinh tế riêng, nhưng với cá nhân thì không. Việc giải quyết biến cố quốc gia luôn liên quan đến những tương tác nhóm và đưa ra quyết định trong phạm vi quốc gia, trong khi cá nhân thường tự đưa ra quyết định. Biến cố quốc gia có thể xử lý bằng cách mạng bạo lực (như trường hợp Chile năm 1973) hoặc
bằng tiến trình hòa bình (như trường hợp Úc sau Thế chiến II); nhưng những cá nhân đơn lẻ không thể theo đuổi cách mạng bạo lực.
Những sự giống nhau, ẩn dụ và khác biệt là lý do tôi thấy những đối sánh về biến cố quốc gia và biến cố cá nhân hữu ích trong việc giúp sinh viên của tôi ở Đại học California, Los Angeles hiểu về những biến cố quốc gia.
Hình 1. Bản đồ thế giới
Khi đọc một cuốn sách, độc giả và các nhà phê bình dần dần phát hiện ra thông tin và cách tiếp cận không như họ mong đợi. Vậy thông tin và cách tiếp cận của cuốn sách này là gì, đồng thời tôi không đưa vào những thông tin và cách tiếp cận nào?
Cuốn sách này là một nghiên cứu so sánh, trần thuật, khảo sát những biến cố và thay đổi có chọn lọc vận hành trên nhiều thập niên ở bảy quốc gia tiên tiến mà tôi có nhiều trải nghiệm cá nhân và được xem xét từ quan điểm thay đổi có chọn lọc theo biến cố cá nhân. Những quốc gia này là Phần Lan, Nhật Bản, Chile, Indonesia, Đức, Úc và Mỹ.
Chúng ta cùng lần lượt xem xét ý nghĩa của mỗi câu chữ.
Đây là một cuốn sách so sánh. Những trang sách này không chỉ bàn luận về một quốc gia. Thay vào đó, chúng được chia đều cho bảy quốc gia để so sánh. Một mặt, các tác giả phi hư cấu phải chọn trình bày những nghiên cứu trường hợp đơn lẻ, mặt khác, phải so sánh nhiều trường hợp khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu thế và hạn chế khác nhau. Trong phạm vi độ dày nhất định của cuốn sách, dĩ nhiên những nghiên cứu trường hợp đơn lẻ có thể cung cấp nhiều chi tiết hơn hẳn về trường hợp đó, nhưng các nghiên cứu so sánh lại có thể đưa ra những quan điểm và phát hiện những vấn đề mà nếu chỉ nghiên cứu một trường hợp đơn lẻ thì sẽ không nêu bật được.
Những đối chiếu lịch sử buộc một người phải đặt ra những câu hỏi có lẽ không xuất hiện từ một nghiên cứu trường hợp đơn lẻ: tại sao một loại sự kiện nào đó lại sản sinh kết quả R1 ở quốc gia này trong khi lại cho ra kết quả R2 khác biệt ở quốc gia khác? Chẳng hạn cuốn sách lịch sử một tập về Nội chiến Mỹ mà tôi thích đọc có thể dành sáu trang để viết về ngày thứ hai của trận Gettysburg, nhưng không giống như những cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha hay Phần Lan, chúng lại không khảo sát tỉ mỉ lý do tại sao Nội chiến Mỹ kết thúc mà bên chiến thắng không giết một ai ở bên thua cuộc. Các tác giả nghiên cứu trường hợp đơn lẻ thường hạ thấp giá trị những nghiên cứu so sánh, cho rằng chúng quá giản đơn và nông cạn, trong khi đó, các tác giả nghiên cứu so sánh cũng đánh giá thấp những nghiên cứu trường hợp đơn lẻ, cho rằng chúng không thể đưa ra những câu hỏi rộng hơn. Quan điểm sau được biểu đạt bằng câu nhận xét đầy châm biếm “Những kẻ chỉ nghiên cứu từng quốc gia sẽ có kết cục là không hiểu bất kỳ quốc gia nào cả.” Cuốn sách này là một nghiên cứu so sánh, nên cũng có những mặt ưu thế và hạn chế theo sau.
Do những trang sách trong cuốn này phải trải đều cho bảy quốc gia, nên tôi nhận thấy một cách khó khăn rằng việc trình bày thông tin về mỗi quốc gia phải thật ngắn gọn. Khi ngồi trên bàn làm việc, quay đầu nhìn lại, tôi thấy đằng sau mình trên nền phòng là hàng chồng sách và tư liệu, mỗi chồng cao đến hàng mét, và cứ một chồng là tư liệu dành cho một chương sách. Tôi phải khổ sở tính toán làm sao để cô đọng đống tư liệu dày đến mét rưỡi về nước Đức thời hậu chiến trong một chương chỉ 11.000 từ. Đúng là phải lọc bỏ quá nhiều! Nhưng sự ngắn gọn cũng được bù đắp: nó giúp độc giả đối chiếu những vấn đề chính yếu giữa nước Đức thời hậu chiến với các quốc gia khác mà không bị rối rắm và choán ngợp bởi những chi tiết, trường hợp ngoại lệ, những “giả dụ” hay “giá như” đầy thú vị. Đối với những độc giả muốn tiếp tục tìm hiểu các chi tiết thú vị hơn, thì đã có thư mục sách tham khảo và các bài viết về các nghiên cứu trường hợp đơn lẻ kèm theo.
Văn phong trình bày trong cuốn sách này thuộc thể loại trần thuật: đó là văn phong truyền thống của các sử gia, luôn dựa trên nền tảng lịch sử như một nguyên tắc đã có từ thời các sử gia Hy Lạp Herodotus và Thucydides cách đây 2.400 năm. “Văn phong trần thuật” nghĩa là mọi tranh biện đều được triển khai bằng luận giải, không dùng phương trình, bảng biểu, đồ thị hay số liệu thống kê, và chỉ với một số ít các nghiên cứu trường hợp. Văn phong này có thể trái ngược với phương pháp định lượng mới có thế mạnh trong nghiên cứu khoa học xã hội hiện đại với việc áp dụng phương trình, giả thuyết có thể được kiểm chứng rõ ràng, bảng biểu dữ liệu, biểu đồ và kích thước mẫu rộng lớn (như nghiên cứu nhiều trường hợp) cho phép kiểm định ý nghĩa thống kê.
Tôi cũng từng học và đánh giá cao thế mạnh của các phương pháp định lượng hiện đại, và cũng đã áp dụng chúng trong một nghiên cứu thống kê về nạn phá rừng trên 73 hòn đảo thuộc quần đảo Polynesia1 để đi đến kết luận rằng không bao giờ có thể rút ra được điều gì thuyết phục từ một thông tin tường thuật về nạn phá rừng ở một vài hòn đảo. Tôi cũng từng cùng biên tập một cuốn sách2 mà một số đồng tác giả với tôi khéo léo sử dụng phương pháp định lượng để giải đáp những vấn đề trước đây từng gây tranh cãi bất tận và các sử gia trần thuật cũng không giải quyết được: chẳng hạn như những cuộc chinh phục của quân đội của Napoleon và biến cố chính trị xảy ra là tốt hay xấu đối với sự phát triển kinh tế châu Âu sau đó.
Ban đầu, tôi hi vọng đưa vào các phương pháp định lượng hiện đại trong cuốn sách này, dành nhiều tháng trời cho việc này, nhưng rồi chỉ đi đến kết luận rằng phải dành nó cho một kế hoạch riêng trong tương lai. Điều này là do cuốn sách này chỉ nhằm mục đích xác định, bằng nghiên cứu trần thuật, các giả thuyết và biến số cho một nghiên cứu định lượng kế tiếp để kiểm chứng. Mẫu nghiên cứu của tôi, với chỉ bảy quốc gia, còn quá ít để rút ra những kết luận có ý nghĩa thống kê. Sẽ cần thêm nhiều nghiên cứu để “chứng minh” các khái niệm định tính qua trần thuật của tôi, như “giải quyết hiệu quả biến cố” và “đánh giá trung thực”: chẳng hạn, để chuyển đổi các khái niệm suông này thành những sự việc có thể cân đong đo đếm bằng con số. Do đó, cuốn sách này là một khảo chứng trần thuật, mà từ đó tôi hi vọng sẽ kích phát việc kiểm chứng bằng định lượng.
Trong một thế giới có hơn 210 quốc gia, cuốn sách này chỉ luận bàn bảy quốc gia vốn dĩ đã quen thuộc với tôi. Tôi từng lui tới bảy quốc gia này nhiều lần, và sống ở sáu nước trong nhiều thời kỳ dài, từ cách đây 70 năm. Tôi yêu thích và ngưỡng mộ họ, thăm lại tất cả trong hai năm trở lại đây và quan tâm một cách nghiêm túc những chuyển biến thường xuyên của hai trong số những nước này. Kết quả là tôi có thể viết về các quốc gia này bằng sự cảm thông và hiểu biết dựa trên những trải nghiệm tự thân và của những người bạn cố cựu sống ở đó. Những kinh nghiệm của tôi và bạn bè bao gồm một thời gian đủ dài để chứng kiến những đổi thay quan trọng. Trong số bảy quốc gia này, Nhật Bản là một trong số các nước mà trải nghiệm của tôi còn vấp phải giới hạn do không nói được ngôn ngữ nước này và mới chỉ đến đây từ 21 năm trước. Dù vậy, để bù lại, đối với Nhật Bản tôi có thể dựa vào những kinh nghiệm cả đời của những thân nhân gốc Nhật qua hôn nhân và của bạn bè cũng như sinh viên người Nhật.
Tất nhiên, bảy quốc gia mà tôi chọn đều dựa vào những kinh nghiệm cá nhân không phải là mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên từ các nước trên thế giới. Năm quốc gia là những nước công nghiệp hóa giàu có, một nước tương đối giàu có và chỉ một nước là quốc gia kém phát triển. Không có nước nào ở châu Phi, hai ở châu Âu, hai ở châu Á, ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ mỗi nơi có một nước, và Úc. Vẫn còn dư địa cho các tác giả khác kiểm tra những kết luận của tôi, được rút ra từ mẫu không-ngẫu-nhiên các quốc gia này, có thể áp dụng cho các nước khác ở mức độ nào. Tôi chấp nhận giới hạn đó và chỉ chọn bảy quốc gia do có vẻ đó là ưu thế nổi trội của tôi khi chỉ bàn luận về các nước mà tôi hiểu rõ dựa trên kinh nghiệm cá nhân, tình bạn, và (trong sáu trường hợp) tính tương đồng ngôn ngữ.
Cuốn sách này hầu như hoàn toàn đề cập đến các biến cố quốc gia hiện đại, diễn ra trong thời của tôi, cho phép tôi viết từ góc nhìn trải nghiệm hiện thời của mình. Phần tách riêng mà tôi đề cập đến những thay đổi trước thời kỳ của mình, vẫn liên quan đến nước Nhật, có đến hai chương. Một chương nói về Nhật Bản ngày nay, còn chương kia về Nhật Bản thời Minh Trị (1868-1912). Tôi để riêng một chương về Nhật Bản thời Minh Trị vì nó là một điển hình nổi bật về sự thay đổi có chọn lọc có ý thức, vì nó vẫn còn là một quá khứ mới gần đây, và vì những hồi ức và vấn đề của Nhật Bản thời Minh Trị vẫn còn nổi trội.
Tất nhiên những biến cố và thay đổi tầm quốc gia cũng xảy đến trong quá khứ và đều đặt ra những câu hỏi tương tự. Dù vậy, tôi không thể đặt ra những câu hỏi về quá khứ từ kinh nghiệm bản thân vì những biến cố trong quá khứ như thế lại là chủ đề cho một tác phẩm rộng lớn hơn. Những điển hình nổi tiếng bao gồm sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã phương Tây vào thế kỷ 4 và 5; sự trỗi dậy và sụp đổ của vương quốc Zulu ở châu Phi vào thế kỷ 19; Cách mạng Pháp năm 1789 và sự tái cấu trúc tiếp đó của nước Pháp, và thất bại thảm hại của nước Phổ trong trận chiến ở sông Jena năm 1806, bị Napoleon chinh phục và những cải cách về mặt xã hội, hành chính và quân đội sau đó của nước này. Vài năm sau khi bắt đầu viết cuốn sách này, và đã nghĩ ra nhan đề cho nó, thì tôi phát hiện ra một tác phẩm có nhan đề tương tự (Crisis, Choice, and Change [Biến cố, lựa chọn, và thay đổi]) đã được nhà xuất bản Mỹ chuyên in sách của tôi ấn hành (Little, Brown) vào năm 1973.3 Tác phẩm đó khác với cuốn của tôi khi chỉ đề cập đến một số nghiên cứu trường hợp trong quá khứ, cũng như ở một số phương diện cơ bản. (Đó là một bộ sách được biên tập bởi nhiều tác giả, áp dụng một bộ khung gọi là “lý thuyết chức năng hệ thống.”)
Bài viết của các sử gia chuyên nghiệp thường cường điệu những nghiên cứu tư liệu, đó là phân tích tư liệu gốc viết tay được lưu trữ. Mỗi cuốn sách lịch sử mới đều chứng tỏ nó qua việc khai thác các nguồn lưu trữ không hoặc ít khả dụng, hay lặp lại những nguồn lưu trữ qua các sử gia khác. Không như hầu hết sách trích dẫn trong thư mục tham khảo của tôi, cuốn sách này không dựa vào những nghiên cứu tư liệu, thay vào đó, đóng góp của nó dựa trên một bộ khung mới lấy từ các biến cố cá nhân, một phương pháp tiếp cận đối sánh rõ ràng và một góc nhìn rút ra từ những trải nghiệm đời sống của riêng tôi và bạn bè.
Đây không phải là một bài đăng trên tạp chí về những vấn đề đương thời, chỉ đọc trong vài tuần sau khi công bố, rồi sau đó trở thành lỗi thời. Thay vào đó, đây là một cuốn sách dự kiến đến nhiều thập niên sau vẫn còn in được. Tôi nêu ra điều hiển nhiên này chỉ để giải thích lý do tại sao bạn có thể ngạc nhiên khi không thấy cuốn sách này nhắc gì về các chính sách hiện hành của chính quyền Tổng thống Trump trên đất Mỹ, về sự lãnh đạo của Donald Trump, hay về những thương thảo Brexit hiện thời ở Anh. Những gì tôi viết ra hôm nay về các vấn đề đang phát triển nhanh chóng đều có thể bị thay thế vào thời điểm cuốn sách này được in ra và sẽ trở nên vô dụng sau đây một vài thập niên. Bạn đọc quan tâm đến Tổng thống Trump, chính sách của ông ta và vấn đề Brexit sẽ tìm thấy nhiều bài viết về chúng được ấn hành ở nhiều nơi. Nhưng ở Chương 9 và Chương 10 lại có nhiều điều để nói về các vấn đề chính yếu của nước Mỹ đang vận hành trong hai thập niên gần đây, mà giờ đang gây sự quan tâm nhiều hơn dưới chính quyền đương thời và có khả năng tiếp tục vận hành chí ít cũng đến thập niên sau.
Sau đây là lộ trình dành cho cuốn sách của tôi. Ở chương đầu, tôi sẽ nói về những biến cố cá nhân trước khi dành phần còn lại cho các biến cố quốc gia. Tất cả chúng ta đều thấy rằng, khi trải qua biến cố riêng tư và chứng kiến biến cố của người thân và bạn bè, có rất nhiều dạng hệ quả do biến cố gây ra. Trong những trường hợp tốt nhất, người ta thành công trong việc tìm thấy những phương cách thích ứng mới và tốt hơn, và họ sẽ trỗi dậy mạnh mẽ. Ở những trường hợp đáng buồn nhất, họ bị choáng váng rồi trở lại với lối mòn cũ xưa hoặc áp dụng những phương cách thích ứng mới nhưng tồi tệ hơn. Một số người gặp biến cố thậm chí còn tự sát. Các nhà trị liệu đã xác định nhiều nhân tố như vậy và tôi sẽ bàn về khoảng một tá nhân tố trong Chương 1, tác động đến khả năng xử lý thành công một biến cố cá nhân. Từ những yếu tố đó, tôi sẽ tìm tòi những nhân tố tương đương tác động đến các hệ quả của biến cố quốc gia.
Đối với những người than phiền, “Một tá nhân tố thì nhiều quá, không nhớ hết. Tại sao không giảm xuống chỉ còn một ít thôi?” – Tôi xin trả lời rằng: quả là phi lý khi nghĩ rằng những hệ quả của sinh mạng con người hay lịch sử quốc gia lại có thể tóm gọn chỉ còn một vài dòng. Nếu không may mà bạn vớ phải một cuốn sách tuyên bố như vậy, hãy quẳng nó đi đừng đọc làm gì nữa. Ngược lại, nếu không may mà bạn vớ phải một cuốn sách luận bàn tất cả 76 nhân tố tác động lên giải pháp xử lý biến cố, thì cũng nên quẳng nó đi: đó là công việc của tác giả cuốn sách, chứ không phải của người đọc, để lĩnh hội và dành ưu tiên cho việc biến tính phức tạp vô hạn của cuộc sống thành một bộ khung hữu ích. Tôi thấy rằng việc đưa ra 12 yếu tố là một sự thỏa hiệp có thể chấp nhận được giữa hai thái cực trên: đủ chi tiết để giải thích khá rõ về thực tế, cũng không chi tiết quá như việc lập một danh sách để theo dõi việc vặt chứ không phải để hiểu biết thế giới.
Sau chương giới thiệu là ba cặp chương, mỗi cặp chương nói về một loại biến cố quốc gia khác nhau. Cặp đầu tiên đề cập các biến cố ở hai quốc gia (Phần Lan và Nhật Bản) bùng phát thành một biến động bất ngờ, từ cú sốc do các quốc gia khác gây ra. Cặp thứ hai cũng đề cập các biến cố bùng phát bất ngờ, nhưng do những bùng nổ nội tại (ở Chile và Indonesia). Cặp cuối mô tả những biến cố không bùng phát đột ngột, thay vào đó chúng dần lộ diện (ở Đức và Úc), đặc biệt do những áp lực gây ra từ Thế chiến II.
Biến cố ở Phần Lan (Chương 2) bùng phát từ cuộc xung đột của Liên Xô với Phần Lan ngày 30 tháng 11 năm 1939. Từ hệ quả của Cuộc chiến Mùa đông, Phần Lan bị tất cả đồng minh tiềm năng bỏ rơi và phải gánh chịu mất mát lớn lao, tuy vậy lại thành công khi giữ được nền độc lập. Hai mươi năm sau, tôi đến ở Phần Lan trong suốt mùa hè, sống cùng với các cựu binh, cô nhi quả phụ của Cuộc chiến Mùa đông. Di sản của cuộc chiến rõ ràng là một sự thay đổi có chọn lọc, biến Phần Lan thành một mảnh ghép chưa từng thấy, một hòa trộn của các yếu tố đối lập: một nền dân chủ tự do tương đối nhỏ bé theo đuổi chính sách đối ngoại làm mọi điều có thể để lấy được lòng tin của chế độ Xô Viết đối kháng rộng lớn nhưng nghèo đói. Chính sách đó bị xem là ô nhục và bị nhiều người không phải gốc Phần Lan vốn không hiểu biết về những căn nguyên lịch sử đối với chính sách này lên án là đường lối “Phần Lan hóa.” Một trong những thời khắc lên đến cao trào vào mùa hè đó ở Phần Lan, khi tôi ngớ ngẩn bày tỏ quan điểm tương tự với một cựu binh trong Cuộc chiến Mùa đông, ông ta nhã nhặn đáp lại, giải thích cho tôi những bài học cay đắng mà người Phần Lan tiếp thu được khi bị các quốc gia khác chối từ giúp đỡ.
Biến cố còn lại của cặp quốc gia thứ nhất được khơi dậy bởi một cú sốc bên ngoài dính dáng đến Nhật Bản, vốn dĩ theo đuổi chính sách cô lập lâu dài (bế quan tỏa cảng) với thế giới bên ngoài, chính sách này chấm dứt ngày 8 tháng 7 năm 1853 khi một đội tàu chiến Mỹ tiến vào Vịnh Tokyo đòi ký một hiệp ước và quyền lợi cho tàu bè và thủy thủ Mỹ (Chương 3). Kết quả cuối cùng là sự đoạn tuyệt với hệ thống chính quyền trước đó của nước Nhật, theo đó là một chương trình cải cách có ý thức nhằm tạo ra thay đổi rộng lớn và mạnh mẽ, cùng một chương trình gìn giữ những bản sắc truyền thống đã giúp nước Nhật ngày nay trở thành một quốc gia công nghiệp hóa giàu mạnh nổi trội nhất. Sự chuyển hóa của nước Nhật trong suốt những thập niên sau sự cố tiếp xúc với hạm đội Mỹ, gọi là thời Minh Trị, là minh họa nổi bật về nhiều nhân tố tác động đến các biến cố quốc gia. Những tiến trình đưa ra quyết định và thành quả về mặt quân sự tiếp đó của Nhật Bản thời Minh Trị mặt khác lại giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao Nhật Bản lại đưa ra những quyết định khác nhau vào thập niên 1930, dẫn đến thất bại nhục nhã về mặt quân sự trong Thế chiến II.
Chương 4 nói về Chile, nước đầu tiên trong hai nước mà biến cố là những bùng phát nội bộ nổ ra từ sự thất bại của một thỏa hiệp giữa những công dân trong nước. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1973, sau nhiều năm bế tắc về mặt chính trị, chính phủ dân chủ được bầu lên ở Chile do Tổng thống Allende lãnh đạo bị lật đổ bởi một vụ đảo chính của quân đội và nhân vật chủ xướng, tướng Pinochet, lên nắm quyền lực trong suốt gần 17 năm. Những người bạn Chile của tôi không dự liệu được vụ đảo chính cũng như về các vụ tra tấn tàn nhẫn, khốc liệt do chính phủ Pinochet gây ra khi tôi còn ở Chile một vài năm trước cuộc đảo chính. Trên thực tế, họ còn giải thích với tôi một cách tự hào về những truyền thống dân chủ lâu đời của đất nước Chile, vốn khác biệt với các quốc gia Nam Mỹ khác. Ngày nay, Chile lại một lần nữa trở thành một đất nước dân chủ ngoại lệ ở Nam Mỹ, nhưng được thay đổi có chọn lọc, kết hợp một số mô hình của Allende và Pinochet. Đối với những người bạn Mỹ, họ nhận xét về bản thảo cuốn sách của tôi rằng chương về Chile là chương khủng khiếp nhất do tốc độ và sự tính chất trọn vẹn khi một thể chế dân chủ trở thành một nền độc tài tàn bạo.
Đi cặp với chương về Chile là Chương 5 viết về Indonesia mà sự thất bại của thỏa hiệp chính trị trong nhân dân cũng gây ra bùng phát nội bộ thành một vụ đảo chính xảy ra vào ngày 1 tháng 10 năm 1965. Hậu quả của vụ này trái ngược với cuộc đảo chính ở Chile: một cuộc phản đảo chính dẫn đến việc thảm sát phe nhóm được cho là ủng hộ vụ đảo chính. Indonesia đứng ở vị thế ngược hẳn so với những nước được đề cập trong cuốn sách này: đây là đất nước nghèo đói, ít công nghiệp hóa và Tây phương hóa nhất trong số bảy nước tôi chọn ra; đồng thời lại có căn tính quốc gia non trẻ nhất, chỉ mới gắn kết trong thời gian 40 năm tôi làm việc ở đó.
Hai chương kế tiếp (Chương 6 và Chương 7) bàn về các biến cố quốc gia của Đức và Úc, có vẻ như chúng dần lộ diện chứ không bất ngờ bùng nổ. Một số độc giả có thể ngần ngừ về việc áp dụng thuật ngữ “biến cố” hay “biến động” về những tình huống phát triển từ từ. Nhưng ngay cả khi có người thích dùng một thuật ngữ khác, tôi vẫn thấy việc quán xét chúng trong phạm vi cùng một bộ khung được áp dụng để thảo luận về những chuyển đổi đột ngột là thiết thực, vì chúng đều nhắm đến những câu hỏi về sự thay đổi có chọn lọc và đều minh họa cho cùng những nhân tố tác động tới hệ quả. Thêm vào đó, sự khác biệt giữa “biến cố bùng phát” và “thay đổi dần dần” là không rõ ràng: chúng hòa lẫn với nhau. Ngay cả trong các trường hợp chuyển đổi có vẻ đột ngột như vụ đảo chính ở Chile, thì nhiều thập niên gia tăng căng thẳng dần dần đã dẫn đến vụ đảo chính, rồi đến những thập niên tiếp nối là những thay đổi dần dần. Tôi mô tả các biến cố ở Chương 6 và Chương 7 “có vẻ” chỉ dần lộ diện, vì rõ ràng biến cố của nước Đức thời hậu chiến bắt đầu bằng việc gánh chịu sự tàn phá gây tổn thương sâu sắc mà bất kỳ quốc gia nào được thảo luận trong cuốn sách này cũng phải trải qua: tình trạng bị hủy hoại của nước Đức ở thời điểm đầu hàng trong Thế chiến II, ngày 8 tháng 5 năm 1945. Tương tự như thế, trong khi biến cố của Úc thời hậu chiến cũng diễn ra từ từ, bắt đầu bằng ba thất bại quân sự gây sốc chỉ trong khoảng thời gian chưa đến ba tháng.
Quốc gia đầu tiên trong hai nước minh họa cho các biến cố không bùng nổ là nước Đức hậu Thế chiến II (Chương 6) đối mặt đồng thời với những vấn đề di sản của thời kỳ Phát xít, với những bất đồng về tổ chức trật tự xã hội và tổn thương về việc phân chia thể chế chính trị giữa Tây Đức và Đông Đức. Trong phạm vi khung đối chiếu của tôi, những đặc trưng nổi bật về xử lý biến cố ở nước Đức thời hậu chiến bao gồm những xung đột bạo lực khác thường giữa các thế hệ, những ràng buộc mạnh mẽ về địa chính trị, và tiến trình hòa giải với các nước từng là nạn nhân của những hành động tàn bạo thời chiến của nước Đức.
Một ví dụ khác về những biến cố không bùng phát là nước Úc (Chương 7), đất nước đã tái định hình căn tính quốc gia trong suốt 55 năm tôi thường đến. Khi lần đầu tôi đến đó vào năm 1964, Úc trông giống một tiền đồn xa xôi của nước Anh trên Thái Bình Dương, vẫn hướng về nước Anh để xác định căn tính của mình, đồng thời vẫn thực hiện chính sách một nước Úc Trắng, hạn chế hay loại trừ những người nhập cư không phải gốc châu Âu. Nhưng nước Úc lại phải đối mặt với một biến cố về căn tính, do căn tính da trắng và căn tính Anh ngày càng mâu thuẫn với vị trí địa lý của Úc, các nhu cầu về chính sách đối ngoại, chiến lược quốc phòng, kinh tế và cấu tạo dân số. Ngày nay, thương mại và chính trị Úc đều hướng đến châu Á, đường phố và khuôn viên đại học đầy người châu Á, và những cử tri Úc chỉ bị thua sít sao trong cuộc trưng cầu dân ý nhằm không công nhận Nữ hoàng Anh là người đứng đầu quốc gia Úc. Tuy nhiên, cũng như ở Nhật Bản thời Minh Trị và Phần Lan, những thay đổi đó đều có chọn lọc: Úc vẫn theo thể chế dân chủ nghị viện, ngôn ngữ quốc gia vẫn là tiếng Anh, và đa số người Úc vẫn có tổ tiên là người Anh.
Đến nay, tất cả những biến cố quốc gia được thảo luận này đều được nhìn nhận đúng, và đã được giải quyết (hay ít nhất thì các phương sách cũng đã được thực hiện trong một thời gian dài) với những thành tựu mà chúng ta có thể đánh giá được. Bốn chương cuối mô tả những biến cố trong hiện tại và tương lai mà những kết quả vẫn còn là một ẩn số. Tôi bắt đầu phần này với nước Nhật (Chương 8), vốn đã là chủ đề ở Chương 3. Nước Nhật ngày nay đang đối mặt với nhiều vấn đề cơ bản, một số đã được người dân và chính quyền Nhật nhận biết rộng rãi, nhưng số khác thì người Nhật chưa nhận thấy hoặc thậm chí còn phủ nhận. Hiện tại, rõ ràng vẫn chưa có hướng xử lý cho những vấn đề này; tương lai của nước Nhật thật ra vẫn còn ở phía trước và vẫn do người dân định đoạt. Liệu những ký ức về một Nhật Bản thời Minh Trị dũng cảm và thành công vượt qua biến cố có đưa nước Nhật hiện đại vươn đến thành tựu?
Hai chương tiếp đó (Chương 9 và Chương 10) liên quan đến Mỹ, đất nước của tôi. Tôi xác định ra bốn biến cố đang ngày càng gia tăng có khả năng xói mòn nền dân chủ và sức mạnh Mỹ chỉ trong thập niên tới, như từng xảy ra ở Chile. Dĩ nhiên, chúng không phải là những phát hiện của tôi: có một thảo luận mở về bốn biến cố này giữa nhiều người Mỹ, và hiện nay đã có một cảm nhận về biến cố lan truyền trong nước. Đối với tôi, dường như vẫn chưa có giải pháp cho cả bốn vấn đề này, mà mọi việc còn trở nên tồi tệ hơn. Cũng như Nhật Bản thời Minh Trị, Mỹ vẫn còn lưu giữ những ký ức về khả năng vượt qua các biến cố, đáng chú ý nhất là cuộc Nội chiến dai dẳng tang thương, và việc Mỹ đột nhiên bị kéo ra khỏi chính sách tách biệt với thế giới về mặt chính trị để dấn thân vào Thế chiến II. Liệu những ký ức đó giờ đây có thể giúp nước Mỹ thành công?
Cuối cùng là phạm vi toàn thế giới (Chương 11). Trong khi người ta có thể tập hợp một danh sách dài vô tận về những vấn nạn mà thế giới phải đối mặt, thì tôi chỉ tập trung vào bốn vấn đề với tôi dường như có khuynh hướng đã diễn ra, mà nếu chúng tiếp diễn sẽ hủy hoại mức sống trên toàn cầu trong vòng vài thập niên tới. Không như Nhật Bản và Mỹ, cả hai nước này đều có lịch sử lâu dài về căn tính quốc gia, chính phủ tự trị và những ký ức về hành động tập thể thành công, cả thế giới thiếu một lịch sử như thế. Liệu thế giới có đạt được thành quả tốt đẹp nếu không có những ký ức đó để truyền cảm hứng cho chúng ta khi mà giờ đây lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối mặt với những vấn nạn có khả năng gây tai ương cho toàn thế giới?
Cuốn sách này kết lại với phần lời bạt xem xét những nghiên cứu của chúng tôi về bảy quốc gia và cả thế giới dưới ánh sáng của 12 yếu tố mà tôi đưa ra. Tôi đặt câu hỏi xem liệu những quốc gia có cần đến biến cố để tái sinh đất nước thông qua những cơ hội lớn lao. Một cú sốc của vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove là cần thiết để chuyển đổi nền tâm lý trị liệu ngắn hạn: các quốc gia có thể quyết định tự chuyển hóa mà không cần đến một cú sốc như vậy hay không? Tôi xem xét việc liệu các nhà lãnh đạo có những quyết định làm thay đổi lịch sử hay không; tôi đề xuất phương hướng cho những nghiên cứu trong tương lai, và đưa ra các kiểu bài học mang tính thực tiễn từ việc khảo sát lịch sử. Nếu người dân, hoặc ngay cả những nhà lãnh đạo của họ, chọn hồi nhớ về các biến cố trong quá khứ, họ sẽ hiểu được quá khứ có thể giúp chúng ta xử lý các biến cố ở hiện tại cũng như trong tương lai.