Những Tấm Lòng Cao Cả - Edmondo De Amicis - Tháng mười
Ngày khai trường
Torino [*] thứ hai, 17
[*] Thành phố lớn ở Bắc Ý, trung tâm công nghiệp và văn hóa quan trọng, trước là thủ đô vương quốc Sardegna, rồi thủ đô vương quốc Ý cho đến năm 1864.
Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng nghỉ hè của chúng tôi đã đi qua như một giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi dắt tôi đến phân hiệu Baretti để ghi tên tôi vào lớp ba. Còn tôi thì mải nhớ thôn quê, tôi đến trường chỉ là miễn cưỡng. Tất cả các đường phố đều tấp nập học sinh, đông như kiến. Hai cửa hiệu bán sách chật những bố mẹ học sinh vào mua nào vở, nào giấy thấm, nào cặp sách bằng da… Trước trường, người đông đến nỗi ông gác cổng và người cảnh binh đều phải chật vật lắm mới giữ được thông lối ra. Chúng tôi sắp bước qua cổng thì thấy có người đặt tay lên vai mình: đó là thầy giáo lớp hai của tôi, có mái tóc hung, bù xù và tính vui vẻ không bao giờ cạn. Thầy bảo tôi: “Chúng ta thế là xa nhau mãi rồi, phải không Enrico?”
Tôi cũng biết như vậy, thế mà lời nói của thầy vẫn làm cho lòng tôi nặng trĩu. Chúng tôi phải chật vật lắm mới vào được trường. Những ông, những bà, những phụ nữ thường dân, những công nhân, những sĩ quan, những bà cụ và những người giúp việc, ai cũng tay dắt một trẻ em, tay mang những cái gói, làm huyên náo cả phòng đợi và các thang gác.
Tôi vui thích thấy lại căn phòng rộng ở tầng dưới thông với bảy lớp học, mà suốt ba năm gần như ngày nào tôi cũng đi qua. Người đông nghịt. Các cô giáo đi đi, lại lại. Một cô giáo lớp một đứng trên ngưỡng cửa của lớp cô, chào tôi và nói:
– Enrico, năm nay con học trên gác, và cô sẽ không còn thấy con đi qua đây nữa.
Rồi cô nhìn tôi có vẻ buồn. Tôi trông thấy thầy hiệu trưởng, mà bộ râu hình như có bạc hơn năm ngoái một ít, đang bị vây giữa những bà mẹ khá phật ý vì không còn chỗ để cho con họ vào học nữa. Tôi thấy nhiều bạn tôi lớn lên nhiều. Ở tầng dưới, học sinh chia xong vào các lớp, người ta thấy các em học những lớp vỡ lòng không chịu vào lớp, cứ đẩy nhau như những con lừa con; người ta phải lôi chúng vào; vài em bỏ chạy không chịu ngồi ghế, nhiều em khác òa lên khóc khi thấy bố mẹ ra về. Những ông bố, bà mẹ ấy phải quay lại để khuyến khích hoặc dỗ dành con; còn các cô giáo trông thấy vậy cũng có nhiều thất vọng.
Em trai tôi được vào lớp của cô giáo Delcati, tôi học lớp thầy giáo Perboni ở gác hai. Đến mười giờ thì tất cả chúng tôi đều đã vào lớp hết; năm mươi bốn học sinh tất cả. Trong đám ấy tôi chỉ gặp lại chưa đến mười lăm, mười sáu bạn cũ lớp hai; trong đó có Derossi, cái cậu bao giờ cũng được giải nhất. Trường học đối với tôi có vẻ nhỏ hẹp và buồn tẻ làm sao so với rừng núi mà tôi đã đến ở chơi mấy tuần qua. Tôi lại còn nhớ tiếc thầy giáo lớp hai của tôi, thầy tốt làm sao, và lúc nào cũng cười với tôi. Người thầy nhỏ nhắn đến nỗi làm cho chúng tôi cứ tưởng như là một người bạn. Tôi tiếc không được thấy thầy ở đây, với mái tóc hung bù xù của thầy nữa.
Thầy giáo năm nay của chúng tôi người cao lớn, không có râu, tóc dài đã hoa râm hết, có một nếp nhăn trên trán, tiếng nói rất to; thầy nhìn chúng tôi chằm chằm hết đứa này đến đứa khác, như muốn đọc rõ tận trong lòng chúng tôi. Thầy không bao giờ cười.
Tôi thầm nghĩ: “Hôm nay là ngày đầu tiên đây. Hãy còn những mười tháng nữa mới lại nghỉ hè. Trước mắt biết bao là công việc, là bài thi, là khó nhọc!” Tan học, tôi cần phải gặp mẹ tôi, và tôi chạy ra ôm lấy mẹ. Mẹ bảo: “Gắng lên, Enrico của mẹ. Mẹ con ta sẽ cùng học với nhau!”. Thế là tôi vui vẻ về nhà. Thôi cũng được! Tôi không còn học với thầy giáo cũ tươi cười thế, vui tính thế và tốt bụng thế; nhà trường đối với tôi hình như cũng chẳng thích thú bằng năm ngoái… Nhưng thôi cũng được.
Thầy giáo mới
Thứ ba, 18
Thầy giáo mới ngay từ sáng hôm nay đã làm cho tất cả chúng tôi đều rất thích.
Khi chúng tôi đang lần lượt vào lớp, và thầy đã ngồi vào chỗ của mình, chốc chốc chúng tôi lại thấy những học trò của thầy năm ngoái, đi qua đều bước vào cửa chào thầy. “Chào thầy ạ! Chào thầy Perboni ạ!”. Có những cậu bước vào bắt tay thầy, rồi vội vàng chạy ra. Rõ ràng đám học trò cũ đều rất mến thầy, và rất muốn lại được học với thầy nữa. Còn thầy thì chỉ thấy trả lời đơn giản: “Chào cậu”, và bắt những bàn tay chìa ra phía thầy, nhưng chẳng nhìn ai cả. Mỗi lần chào lại, thầy đều nghiêng mình vẻ nghiêm trang, mặt quay về phía cửa sổ, nhìn sang mái nhà trước mặt. Đáng lẽ làm cho thầy vui, thì những sự biểu lộ tình cảm của học trò cũ hình như làm cho thầy đau khổ. Rồi lại đến lượt thầy nhìn chúng tôi, những học trò mới, hết đứa này đến đứa khác, một cách chăm chú. Vừa đọc chính tả, thầy vừa bước xuống bục và đi vào giữa các dãy bàn của chúng tôi. Chợt nhìn thấy một cậu mặt đỏ ửng và đầy những nốt sưng nhỏ, thầy liền ngừng đọc, lấy hai tay ôm đầu cậu bé, hỏi cậu làm sao, rồi sờ trán xem cậu có sốt không. Trong lúc đó thì ở sau lưng thầy một cậu đứng ngay lên trên ghế và bắt đầu múa như con rối.
Thầy giáo quay ngoắt lại, cậu ta hoảng hốt vội ngồi xuống và cúi gầm mặt, chắc chắn thế nào cũng bị mắng một trận. Nhưng thầy Perboni đặt tay lên vai cậu bé dại dột và nói: “Đừng làm thế nữa nhé!”. Chỉ thế thôi. Rồi thầy lại trở về chỗ và đọc nốt bài chính tả.
Xong bài chính tả, thầy lặng thinh nhìn chúng tôi một lúc, rồi nói với chúng tôi, giọng thầy rất to, nhưng hết sức hiền từ: “Nghe đây, các con ạ! Chúng ta sẽ sống chung với nhau cả một năm, thầy trò ta đều cố gắng làm sao cho năm nay thật tốt. Các con phải chăm và ngoan. Thầy không có gia đình. Chính các con sẽ thay cho gia đình của thầy. Năm ngoái thầy còn mẹ; nhưng nay mẹ thầy đã mất rồi. Nay thầy chỉ có một mình, thầy chỉ còn các con trên đời này nữa thôi. Thầy chẳng còn ý nghĩ nào, tình cảm nào ngoài các con ra. Các con phải là đàn con của thầy. Thầy sẽ rất thương các con, và các con cũng phải thương thầy. Thầy không muốn phải phạt một ai. Các con hãy tỏ ra cho thầy thấy là những đứa trẻ chân thành, dũng cảm. Trường học của chúng ta sẽ là một gia đình, và các con sẽ là niềm an ủi và niềm tự hào của thầy. Thầy không yêu cầu các con phải trả lời, vì thầy tin chắc rằng trong lòng tất cả các con đều đã nói “vâng ạ”, và thầy xin cám ơn các con”.
Vừa lúc ấy thì người gác cổng vào báo hết giờ học [*]. Tất cả chúng tôi đều im lặng ra khỏi lớp. Cậu học trò lúc nãy đứng lên ghế làm trò, bước lại gần thầy, và hỏi thầy giọng run run: “Thưa thầy, thầy có tha lỗi cho con không ạ?”.
[*] Trong các trường ở các thành phố nước Ý, theo lệ thì đến lúc hết giờ học, người gác cổng đến từng lớp, nói một tiếng La tinh Finis, nghĩa là hết giờ, chứ không đánh trống hay kẻng.
Thầy giáo hôn vào trán cậu và nói: “Thế là tốt con ạ! Thôi con về đi”.
Một tai nạn
Thứ sáu, 21
Năm học đã bắt đầu bằng một tai họa. Sáng nay, trên đường đi học, tôi đang kể lại cho bố nghe những lời nói chân thành của thầy Perboni, thì bỗng thấy đường phố đông nghịt những người. Họ dừng lại trước cổng trường thị xã. Bố kêu lên:
– Chắc đã xảy ra tai nạn gì rồi!
Chúng tôi phải len vào trường một cách rất khó khăn. Căn phòng lớn chật ních bố mẹ học sinh, và cả học sinh mà các thầy giáo không tài nào cho vào lớp được. Tất cả mọi người đều nhìn về phía cửa phòng thầy hiệu trưởng, và có người nói: “Tội nghiệp cậu bé! Tội nghiệp Robetti!”. Ở tít đằng cuối phòng lớn, người ta thấy nhô lên trên đám đông cái mũ của một người cảnh vệ thị xã và cái đầu hói của thầy hiệu trưởng. Một ông đội mũ cao vừa đi vào, và người ta thì thầm: “Kìa, bác sĩ”.
Bố tôi hỏi một thầy giáo: “Việc gì vậy, thưa thầy?”.
Thầy giáo trả lời: “Xe đè lên chân cậu ấy”.
Một người khác tiếp lời: “Và đã nghiến nát bàn chân cậu ta”.
Người bị nạn là một học sinh lớp hai. Cậu ta đang đi ở đường phố Dora Grossa để đến trường, thì thấy một em bé lớp sơ đẳng [lớp vỡ lòng] tuột khỏi tay mẹ và ngã xuống trước một chiếc xe chở khách đang chạy, chỉ cách xe có một bước. Lập tức cậu ta dũng cảm lao đến cứu em bé, bế xốc em dậy. Không may bánh xe đè lên chân cậu bé quả cảm. Cậu ta là con trai ông đại úy pháo binh. Câu chuyện người ta kể cho chúng tôi đến đó thì một người đàn bà hốt hoảng, rẽ đám đông đâm bổ vào trong phòng. Đó là mẹ của Robetti, mà người ta vừa báo cho biết. Một người khác, mẹ của em bé được cứu sống, chạy lại ôm choàng lấy cổ bà mẹ Robetti mà khóc nức nở, và dìu bà vào trong phòng thầy hiệu trưởng. Ở bên ngoài, chúng tôi nghe tiếng kêu thất vọng của bà Robetti: “Ôi, Giulio của mẹ, con yêu dấu của mẹ!”.
Một lát sau, một chiếc xe đỗ trước cổng và thầy hiệu trưởng đi ra, bế cậu bé bị thương trên tay. Cậu bé đáng thương, mặt tái nhợt, mắt nửa nhắm nửa mở, đầu tựa lên vai thầy hiệu trưởng. Thấy cậu, mọi người đều im lặng. Người ta chỉ còn nghe tiếng nấc cố nén của bà Robetti. Thầy hiệu trưởng dừng lại một chốc trong phòng, nâng cậu Robetti lên, như để cho mọi người trông thấy cậu.
Tức thì, thầy giáo, cô giáo, bố mẹ học sinh và học sinh, tất cả mọi người đều nói to:
“Robetti dũng cảm! Cậu bé dũng cảm và đáng thương!”.
Người ta gửi đến những cái hôn; các cô giáo và các học sinh đứng gần thì hôn hai bàn tay bé nhỏ bất động của cậu. Cậu mở mắt ra và thì thầm hỏi: “Cặp sách của cháu đâu rồi?”. Bà mẹ của em bé được cứu sống vừa khóc vừa đưa chiếc cặp ra nói: “Đây, chính bác giữ đây, cháu yêu dấu của bác ạ!” Nghe con đã nói được, bà Robetti mỉm cười. Mọi người đều đi ra. Cậu bé bị thương được đặt nằm cẩn thận trong xe, người ta quất roi cho ngựa chạy. Và tất cả chúng tôi vào lớp học, lặng lẽ và xúc động.
Cậu bé xứ Calabria [xứ ở phía Nam, nơi tận cùng bán đảo Ý]
Thứ bảy, 22
Chiều qua, trong khi thầy giáo cho chúng tôi biết tin tức cậu Robetti đáng thương – cậu ta phải đi bằng nạng một thời gian – thì thầy hiệu trưởng vào lớp, theo sau là một học trò mới: một cậu mặt nâu, tóc đen, mắt to và linh hoạt, đôi lông mày rậm như gần giao lại với nhau; quần áo màu sẫm thắt một dây lưng bằng da đen. Sau khi nói rất khẽ mấy câu với thầy Perboni, thầy hiệu trưởng để cậu bé lại rồi đi ra. Người mới đến nhìn chúng tôi bằng đôi mắt to, với cái vẻ gần như hoảng hốt. Thầy giáo cầm tay cậu và nói với chúng tôi:
“Các con phải lấy làm hài lòng, hôm nay vào học lớp ta, một học sinh quê ở Reggio di Calabria rất xa đây, ở nơi tận cùng của vương quốc. Các con hãy niềm nở đón tiếp người bạn mới. Bạn là con đẻ của một miền đất vinh quang, đã cho nước Ý những danh nhân, và còn cho nước Ý những người lao động giỏi và những chiến sĩ dũng cảm. Quê hương của bạn là một trong những miền đẹp nhất Tổ quốc ta; ở đấy có những núi cao phủ kín rừng, và nhân dân thì rất thông minh và đầy quả cảm. Hãy thương bạn, các con ạ, để cho bạn không thấy rằng bạn đang ở rất xa nơi chôn rau cắt rốn của mình; hãy tỏ cho bạn biết rằng một cậu bé người Ý vào học mọi trường trên đất Ý thì ở đâu cũng tìm thấy những người bạn, những người anh em!”.
Nói xong, thầy Perboni đứng lên và chỉ trên bản đồ nước Ý treo ở tường cái điểm vẽ thành phố Reggio di Calabria. Thầy lại gọi với cái giọng rất to của thầy: “Ernesto Derossi!”.
Derossi (cái cậu bao giờ cũng được phần thưởng nhất lớp) đứng dậy. “Lên đây thầy bảo”. Derossi ra khỏi chỗ ngồi, đi lên phía bàn thầy giáo, đứng cách cậu bé xứ Calabria hai bước. Thầy Perboni bảo: “Con là người đầu lớp, ở cương vị ấy con hãy thay mặt tất cả các bạn hôn bạn mới đến, cái hôn của những người con xứ Piemonte gửi đứa con xứ Calabria”.
Derossi đến gần cậu bé Calabria và nói với cậu, giọng thanh và trong: “Xin vui mừng đón bạn!” Rồi ôm hôn cậu nồng nàn trên hai má! Tất cả chúng tôi đều vỗ tay.
“Yên nào! Trong lớp không được vỗ tay”, thầy giáo nói to. Dù thầy cấm, chúng tôi vẫn thấy rõ là thầy rất hài lòng về nỗi bồng bột của chúng tôi.
Cậu bé xứ Calabria cũng vậy, cậu cũng rất vui lòng. Thầy Perboni chỉ một chỗ ngồi, dắt cậu đến, rồi lại nói với chúng tôi:
“Để đạt kết quả như các con thấy, nghĩa là để cho một cậu bé Calabria đến Torino vẫn thấy rằng mình ở quê mình, cũng như một cậu bé ở Torino đến Reggio di Calabria có quyền là mình vẫn ở quê mình, đất nước ta đã chiến đấu năm mươi năm, và ba vạn người Ý đã chết cho tự do [*]. Các con hãy yêu nhau như anh em ruột thịt; và ai mà xúc phạm đến người bạn mới này vì bạn không phải là người Piemonte, thì không xứng đáng được ngẩng mặt lên khi lá cờ ba màu diễu qua!”.
[*] Đầu thế kỉ XIX, đất nước Ý bị chia làm bảy nước, phần lớn do triều đình Áo thống trị. Người Ý phải khởi nghĩa liên tiếp và tiến hành chiến tranh giải phóng, đến năm 1870 mới hoàn thành thống nhất được đất nước. Đây thầy dạy cho học sinh một bài học yêu nước và đoàn kết dân tộc giữa những người Ý trước đây thuộc các vương quốc khác nhau do các thế lực phong kiến ngoại lai chia cắt.
Cậu bé Calabria vừa ngồi vào chỗ thì các bạn ngồi gần đã lập tức đưa cho, nào ngòi bút, nào bút chì, nào tranh ảnh; một bạn ngồi bàn cuối gửi đến cho cậu, làm bằng chứng tình bạn, một con tem Thụy Điển.
Các bạn học của tôi
Thứ ba, 25
Anh học trò đã cho cậu bé Calabria con tem là người mà tôi thích nhất lớp. Cậu ta tên là Garrone, lớn nhất lớp, sắp lên mười bốn tuổi, đầu to, vai rộng. Cậu rất tốt bụng, cứ trông nụ cười của cậu thì đủ biết. Lúc nào cậu cũng có vẻ suy nghĩ và chín chắn. Giờ thì tôi đã biết được nhiều bạn của tôi rồi. Một bạn khác cũng làm cho tôi thích, vì cậu ta lúc nào cũng có vẻ rất hài lòng, tên là Coretti. Cậu ta mặc một cái áo ngắn bằng da rái cá, và đội cái mũ nồi bằng da mèo. Cậu ta con một bác bán củi đã phục vụ trong quân đoàn của thái tử Umberto hồi chiến tranh 1866. Người ta bảo bác ấy được thưởng ba huân chương. Lại còn cậu Nelli, cậu bé gù tội nghiệp nom quá gầy gò, quá yếu đuối. Có một cậu ăn mặc rất sang, lúc nào cũng gỡ những sợi lông bám vào quần áo mình, tên là Votini. Ngồi trước tôi là một cậu, mà anh em gọi là “cậu bé thợ nề” vì bố cậu ta làm nghề ấy: mặt cậu ta tròn như quả táo và mũi thì tẹt. Cậu ta có cái biệt tài làm như kẻ sứt môi, và tất cả học sinh thường bảo cậu ta làm để cười cho vui. Cậu ta có cái mũ mềm, nho nhỏ cứ cuộn lại đút túi như một chiếc khăn tay.
Ngồi gần “cậu bé thợ nề” là Garoffi, cao gầy, mũi khoằm như cái gọng kìm và đôi mắt ti hí. Cậu thường xuyên mua bán, đổi chác nào ngòi bút, nào hộp diêm; cậu viết cả bài học lên móng tay để nhìn trộm khi thầy gọi đọc thuộc lòng. Lại còn một cậu bé có vẻ khinh khỉnh: Carlo Nobis. Cậu ngồi giữa hai cậu mà đối với tôi rất có thiện cảm: một cậu là con ông thợ khóa, ăn mặc luộm thuộm, cái áo dài xuống tận đầu gối, xanh xao như người ốm, mặt bao giờ cũng sợ sệt và nụ cười đau đớn; cậu kia thì tóc đỏ hoe, một cánh tay bị liệt phải buộc băng quàng vào cổ. Bố cậu ở bên Mỹ, và mẹ cậu bán rong rau quả. Ngồi sát bên trái tôi lại là một nhân vật lạ lùng, Stardi, người thấp và to ngang, cổ rụt vào giữa hai vai, lúc nào cũng càu nhàu, không bao giờ chuyện trò với ai cả, không lấy gì làm thông minh – tôi cho như vậy – nhưng rất chăm chú nghe lời thầy giảng; cậu ta ngồi nghe không nhúc nhích, mắt nhìn thầy đăm đăm, cái trán nhăn lại, hai hàm răng cắn chặt vào nhau. Vô phúc mà nói gì với cậu ta khi thầy giáo đang giảng bài, thì cậu ta không thèm trả lời, cứ hỏi dai thì cậu ta sẽ cho một cái đá… nhưng vẫn không nói nửa lời. Cạnh Stardi là một bộ mặt tàn nhẫn và ghê tởm, đó là Franti, hình như nó đã bị đuổi khỏi một trường khác. Lại còn có hai anh em ruột ăn mặc giống nhau, đều đội mũ có cắm cái lông chim trĩ, và giống nhau như hệt.
Nhưng cái cậu dễ thương hơn hết, thông minh nhất lớp và chắc chắn năm nay thế nào cũng được phần thưởng nhất là Derossi. Thầy giáo đoán biết vậy, nên hỏi bài cậu ta luôn. Precossi tất nhiên là tôi rất yêu, cậu con ông thợ khóa, cái cậu mặc chiếc áo quá dài, và nét mặt có vẻ đau khổ. Người ta bảo là cậu hay bị bố đánh, tội nghiệp! Trông cậu nhút nhát: mỗi khi hỏi gì ai hay khẽ chạm vào ai là lại nói: “Xin lỗi”, vừa nói vừa nhìn người ta với đôi mắt hiền lành và buồn rầu. Nhưng cậu Garrone cao lớn thì tôi vẫn cho là tốt hơn tất cả mọi người.
Một hành vi hào hiệp
Thứ tư, 26
May quá, đúng sáng nay chúng tôi đã có dịp đánh giá Garrone.
Khi tôi vào lớp (hơi muộn một tí vì cô giáo lớp dưới đã giữ tôi lại hỏi lúc nào cô có thể đến chơi nhà tôi) thì thầy Perboni vẫn chưa đến; và ba hay bốn đứa đang hành hạ cậu Crossi đáng thương, cái cậu tóc hoe, cánh tay bị liệt có bà mẹ bán rau quả ấy. Chúng lấy thước đánh cậu; ném vỏ hạt dẻ vào đầu cậu; gọi cậu là con quỷ què và nhại cái tay của cậu. Một mình ở đầu ghế ngồi, Crossi sợ hãi, nghe và nhìn khi đứa này khi đứa kia với đôi mắt van lơn, cầu chúng để cho yên thân. Nhưng bọn chúng mỗi lúc một làm già, đến nỗi cậu bắt đầu run lên và mặt đỏ bừng vì tức giận. Bỗng Franti, cái thằng có bộ mặt tàn nhẫn ấy, đứng lên một cái ghế, làm bộ như ôm mỗi tay một cái sọt, nó nhại mẹ Crossi khi bà đến đón con ở cổng trường. Mấy hôm nay, không thấy bà ta đến, vì đang ốm. Thấy diễn màn kịch câm ấy, học trò cười ầm lên. Crossi liền mất bình tĩnh, chộp lấy lọ mực trước mặt và dùng hết sức ném vào Franti. Nhưng Franti tránh được và lọ mực trúng ngay vào giữa ngực thầy Perboni vừa bước vào.
Tất cả học trò khiếp sợ, chạy về chỗ, và im thin thít như vừa có một phép lạ.
Thầy giáo tái mặt, bước lên bục và hỏi, giọng lạc hẳn đi: “Ai ném lọ mực?”
Không một tiếng trả lời.
“Ai?” – Thầy Perboni nhắc lại giọng to hơn. Garrone động lòng thương xót Crossi, liền đứng dậy và nói quả quyết: “Thưa thầy, con ạ!”.
Thầy giáo nhìn Garrone, rồi nhìn đám học sinh đang sửng sốt, và nói giọng bình tĩnh: “Không phải con”.
Sau một phút thầy lại nói: “Người có lỗi không bị phạt, cứ đứng dậy”.
Crossi đứng dậy, vừa nói vừa khóc:
– Thưa thầy các bạn trêu con, chửi con, con mất bình tĩnh… con đã ném…
– Con ngồi xuống, thầy giáo bảo – và những ai đã khiêu khích bạn, thì đứng lên!
Bốn trong những đứa đã gây sự đứng dậy, đầu cúi gằm. Thầy Perboni nói:
“Các cậu đã lăng mạ một người bạn không hề gây sự với mình, các cậu đã nhạo báng một người tàn tật, các cậu đã tấn công một em bé yếu đuối không có sức chống cự. Các cậu đã làm một việc hèn hạ nhất và nhục nhã nhất, có thể bôi nhọ lương tâm con người: các cậu là những kẻ hèn nhát!” Nói xong, thầy bước xuống giữa chúng tôi, đi về phía Garrone, thầy đến gần, cậu cúi đầu xuống. Thầy Perboni đưa tay xuống dưới cằm Garrone, nâng đầu cậu ta lên nhìn thẳng vào mặt và nói:
“Con quả có một tấm lòng cao quý!”
Nhân lúc ấy, Garrone ghé vào tai thầy, nói nhỏ mấy tiếng. Tức thì thầy quay lại bốn tên thủ phạm và bỗng nhiên bảo họ: “Thôi, thầy tha lỗi cho các con!”.
Cô giáo lớp một trên [*] của tôi
[*] Trường tiểu học ở Ý có hai lớp một: mới vào thì học lớp một dưới là lớp vỡ lòng, rồi lên lớp một trên.
Thứ năm, 27
Cô giáo cũ dạy tôi ở lớp một đã giữ lời hứa, cô đến thăm chúng tôi hôm nay. Đã một năm rồi cô giáo mới lại đến đây, và tất cả mọi người trong nhà đều vui mừng đón tiếp cô. Lúc nào cô cũng thế, vẫn là một người phụ nữ nhỏ nhắn, đội cái mũ viền nhung màu lục không hợp với cô một tí nào, ăn mặc không chút cầu kỳ; vì may lắm cô mới tranh thủ được một tí thì giờ để chải tóc, mà tóc đã bắt đầu bạc từ năm ngoái. Da của cô cũng xanh đi, và cô cứ ho không ngớt.
– Cô ít chú ý đến sức khỏe quá – mẹ tôi nói với cô như vậy.
– Chẳng sao đâu – cô trả lời với một nụ cười vừa vui vẻ vừa đượm buồn.
– Cô hay nói to quá – mẹ tôi lại nói – cô mệt quá với đám học trò đấy.
Đúng thế đấy, người ta luôn luôn nghe tiếng của cô át cả lớp học. Cô nói không hề nghỉ, để cho các em nhỏ không thể lơ đễnh được, và cô cũng không hề ngồi lấy một phút cho đỡ mỏi.
Tôi tin chắc thế nào cô cũng đến nhà tôi, vì cô không bao giờ quên học trò cũ của cô; cô nhớ tên học trò, và những ngày thi cô đến thầy hiệu trưởng để xem họ được bao nhiêu điểm; cô còn đứng ngoài cửa phòng thi chờ họ ra và bảo họ đem cho cô đọc những bài làm, để xem họ có tiến bộ không. Rất nhiều học trò cũ của cô đã mặc quần dài và có đồng hồ vàng bỏ túi, nghĩa là những học trò lớn rồi, vẫn từ trường trung học về thăm cô. Hôm nay cô vừa dẫn đám học trò đi xem Viện bảo tàng hội họa về, mệt hết hơi; vì thứ năm nào cũng thế, cô vẫn đưa học trò đến một nơi nào lý thú như vậy, giảng cho họ nghe tất cả những gì có thể làm cho họ thích, hay có thể đem đến cho họ một bài học bổ ích.
Tội nghiệp cô giáo! Cô lại gầy thêm. Nhưng lúc nào cô cũng linh hoạt, và hễ nói đến lớp của mình là lại sôi nổi. Cô ngỏ ý muốn xem lại cái giường mà cô thấy tôi nằm, khi tôi ốm nặng, cái giường hiện nay để em tôi nằm. Xong rồi cô ra về, vì cô rất vội; cô đi thăm một em bé lớp cô, con một bác thợ đóng yên ngựa, đang lên sởi. Cô lại còn cả một chồng bài tập để chấm, công việc của cả một buổi tối; ấy là chưa kể một bài số học phải dạy cho một chị bán hàng trước bữa ăn chiều nữa.
“Này, Enrico, – cô vừa ra về vừa nói với tôi – giờ con đã giải được những bài toán khó, đã làm được những bài luận rồi, con còn yêu cô giáo của con nữa không?”
Cô hôn tôi, và xuống đến chân cầu thang còn nói to cho tôi nghe: “Đừng quên cô nhé, Enrico ạ!”
Ôi! Cô giáo rất tốt của con, không bao giờ, không bao giờ con lại quên cô được! Sau này khi đã lớn, con vẫn nhớ cô, và con sẽ đến tìm gặp cô giữa đám học trò nhỏ của cô. Mỗi lần đi ngang qua một trường học và nghe tiếng một cô giáo giảng bài, con sẽ tưởng như tiếng nói của cô, con sẽ nhớ lại hai năm ngồi trong lớp của cô; ở đó con đã học được bao nhiêu điều, ở đó đã bao lần con trông thấy cô mệt mỏi và đau ốm, nhưng luôn luôn theo dõi lớp học, luôn luôn khoan dung với mọi người; cô thất vọng khi thấy một trò cứ cầm cây bút không chỉnh mà không sao uốn nắn lại được; cô lo lắng cho chúng con khi các ông thanh tra thăm lớp và hỏi bài chúng con, cô sung sướng khi chúng con đạt được những kết quả xuất sắc; lúc nào cô cũng nhân hậu và hiền từ như một bà mẹ. Không bao giờ, không bao giờ con lại quên cô, cô giáo thân yêu của con!
Trong một căn gác xép
Thứ sáu, 28
Chiều hôm qua, tôi cùng mẹ và em Silvia mang áo quần đến cho người đàn bà nghèo khổ đã được giới thiệu trên báo. Tôi ôm cái gói; Silvia ghi trên mẩu giấy địa chỉ và những chữ đầu của họ và tên người đàn bà tội nghiệp đăng trên báo. Chúng tôi lên mãi tầng trên cùng của một ngôi nhà rất cao. Trong một hành lang nhỏ hẹp, có cả một dãy cửa, mẹ tôi gõ cái cửa ở trong cùng. Một người đàn đàn bà còn trẻ, tóc bạch kim, gầy, ra mở cửa. Hình như tôi đã gặp bà ta ở đâu rồi thì phải, cũng cái khăn trùm màu lơ trên đầu như thế.
– Có phải bà đã được giới thiệu ở trên báo không ạ? – mẹ hỏi.
– Vâng, thưa bà, đúng là tôi ạ.
– Vậy chúng tôi xin mang đến giúp bà một ít áo quần.
Người đàn bà tội nghiệp cám ơn chúng tôi không ngớt.
Trong khi ấy tôi nhìn thấy, ở một góc của căn phòng tối tăm và trống trải chẳng có đồ đạc gì, một cậu bé quay lưng lại phía chúng tôi, đang quỳ trước một cái ghế, và hình như đang viết một cách chăm chú. Giấy thì để ở trên mặt ghế, và lọ mực để dưới sàn nhà. Làm thế nào mà học được trong bóng tối như vậy nhỉ? Trong khi tự hỏi như vậy thì tôi bỗng nhận ra mái tóc hung và cái áo dài của Crossi, con bà bán rau quả rong, cái cậu có cánh tay bị liệt ấy. Tôi nói khẽ cho mẹ biết, trong khi người đàn bà tội nghiệp mở cái gói mà chúng tôi vừa đem đến cho.
– Im, – mẹ tôi bảo, – có thể cậu ta sẽ tủi thân vì thấy con làm phúc cho mẹ cậu. Đừng gọi.
Nhưng đúng lúc ấy Crossi ngoảnh lại: tôi trở nên lúng túng, còn cậu thì mỉm cười với tôi, và mẹ liền đẩy tôi lại với cậu. Nhưng cậu đã chạy lại, tay dang ra. Tôi ôm chầm lấy Crossi.
Mẹ Crossi nói với mẹ:
– Bà thấy đấy! Tôi chỉ có một mình với cháu thôi, bố cháu sang bên Mỹ đã sáu năm nay, và không may hơn nữa là tôi lại ốm, không thể ra phố bán rau để kiếm vài xu. Chúng tôi đã bán dần dần tất cả đồ đạc; đến một cái bàn để cho thằng Luigi tội nghiệp của tôi ngồi làm bài cũng không còn. Trước đây tôi còn một cái ghế dài kê ở cửa dưới thì ít ra nó cũng có thể để vở lên mà viết được, nhưng nay cũng chẳng còn nữa. Chúng tôi chẳng có chút dầu đèn gì, thằng bé đáng thương cứ phải học trong bóng tối, như thế rồi cũng hỏng mắt. Cũng may mà tôi còn có thể cho cháu đi học được ở trường thị xã; ở đấy người ta cho nó sách vở. Tội nghiệp Luigi, nó ham học lắm! Ôi, tôi khổ lắm bà ạ!
Mẹ dúi vào tay người đàn bà khổ sở tất cả số tiền còn trong ví, ôm hôn Crossi và bước ra khỏi căn gác xép, đôi mắt đẫm lệ.
Mẹ bảo tôi rất đúng rằng:
– Con hãy xem cậu bé tội nghiệp ấy phải học hành trong một hoàn cảnh rất đáng buồn! Còn con, thì có tất cả mọi cái cần thiết để học tập, thế mà có khi con lại thấy việc học là khó khăn. À, Enrico yêu dấu của mẹ, một ngày học của Crossi như vậy thật đáng giá hơn cả một năm học của con, chính người ta phải tặng những phần thưởng cao nhất cho những học trò như thế!
Bố nghe được những lời nói vừa rồi của mẹ, và cũng ngày hôm đó tôi thấy trên bàn học của tôi bức thư sau đây.
Trường học
(thư của bố)
Thứ sáu, 28
“Đúng thế, Enrico yêu dấu của bố, việc học quả là khó nhọc đối với con, như mẹ đã nói với con, con vẫn chưa đến trường với thái độ hăm hở và vẻ mặt tươi cười như bố muốn thấy. Nhưng con hãy nghĩ một tí xem một ngày của con sẽ trống trải biết bao nếu con không đến trường học; và chắc chắn là một tuần lễ thôi, thế nào con cũng xin trở lại trường. Hiện nay, tất cả thiếu niên đều đi học, Enrico yêu dấu ạ. Con hãy nghĩ đến những người thợ tối tối đến trường học sau khi đã lao động suốt cả ngày, hãy nghĩ đến những cô gái đã đi học ngày Chủ nhật sau cả tuần lễ bận rộn trong các xưởng thợ, đến những người lính ở thao trường trở về là đã viết viết, đọc đọc. Hãy nghĩ đến những cậu bé câm và mù mà cũng vẫn học. Con hãy nghĩ rằng mỗi buổi sáng khi con bước ra đường thì cũng vào giờ ấy, trong thành phố ta ba vạn trẻ em cũng như con, đến khép mình ba giờ liền trong một lớp để học tập. Con lại hãy nghĩ đến tất cả trẻ em gần cùng một lúc, ở tất cả các nước trên thế giới, cũng đang đi học. Con hãy hình dung trong trí tưởng tượng những học sinh ấy đang đi trên những con đường ở nông thôn, trên những đường phố của các thành thị nhộn nhịp, dưới trời nắng gắt hay dưới tuyết rơi, đi thuyền ở những xứ dọc ngang kinh rạch, đi ngựa qua những cánh đồng rộng lớn, đi xe trượt trên mặt băng, qua các thung lũng và các đồi gò, qua rừng, qua suối, trên những đường mòn hẻo lánh băng qua núi, đi một mình, đi từng đôi hay từng tốp, thành hàng dài, tất cả đều cắp sách vở, mặc quần áo hàng nghìn kiểu, nói nhiều thứ tiếng khác nhau, từ ngôi trường xa xôi nhất khuất nẻo trong tuyết của nước Nga cho đến ngôi trường hẻo lánh nhất của đất Arabia núp dưới bóng cây cọ. Hàng triệu, hàng triệu trẻ em, tất cả cùng học những điều như nhau dưới những hình thức khác nhau.
Con hãy tưởng tượng số học sinh đông như kiến của hàng trăm dân tộc khác nhau ấy, hãy tưởng tượng cái phong trào cực kỳ rộng lớn mà họ tham gia, và con hãy tự nhủ rằng: “Nếu phong trào ấy mà ngừng, thì nhân loại sẽ chìm đắm trở lại trong cảnh dã man; phong trào ấy là sự tiến bộ, là niềm hy vọng, là vinh quang của thế giới!”. Con can đảm lên, người lính nhỏ của đạo quân mênh mông ấy! Sách vở là vũ khí của con, lớp học là đơn vị của con, trận địa là cả hoàn cầu, và chiến thắng là nền văn minh của nhân loại! Ôi, không bao giờ con là một người lính nhát gan, Enrico của bố ạ.
Bố của con”.
Cậu bé yêu nước Padova
(Truyện đọc hàng tháng)
Thứ bảy, ngày 29
Không, không bao giờ tôi chịu làm tên lính hèn nhát. Nếu ngày nào thầy giáo cũng kể cho tôi nghe như câu chuyện sáng nay thì có lẽ không bao giờ tôi muốn nghỉ học. Theo lời thầy thì mỗi tháng sẽ có một truyện mà truyện nào cũng nói về những thủ đoạn phi thường của một đứa trẻ con.
“LÒNG YÊU NƯỚC CỦA CẬU BÉ THÀNH PAĐÔVA(1)” đó là đầu đề câu chuyện sáng nay.
Năm trước, một chiếc tàu Tây Ban Nha dời bến Bardêlôna(2) để đi Giênôva(3). Trên tàu, trừ người Tây Ban Nha, còn có một số người Pháp, người Italia, người Thuỵ Sĩ, và nhiều người khác nữa. Trong bọn hành khách người ta nhận thấy một đứa trẻ độ 11 tuổi, ăn mặc nhơm nhếch, đứng riêng một chỗ và nhìn những người kia bằng đôi mắt hầm hầm. Nó nhìn như thế cũng không phải hẳn là không có cớ. Cha mẹ nó là nông dân ở gần Pađôva, cố nhiên là nghèo túng, hai năm trước vì tham tiền đã cho nó đi ở với một người chủ xiếc rong. Người này dạy nó một vài món nhảy, lộn rồi bắt nó theo sang Pháp và Tây Ban Nha. Nó bị hành hạ luôn tay và ăn uống không đủ.
Đến thành Bardêlôna, không thể chịu được cái đời sống khổ ải ấy nữa, đứa trẻ khốn nạn liền trốn chủ đến cầu cứu viên lãnh sự Italia. Động mối thương tâm, viên lãnh sự xin cho nó một chỗ trong tàu nói trên và cho nó một lá thư giới thiệu cùng ông thị trưởng thành Giênôva nhờ ông trả về cho cha mẹ nó, là người đã bán nó như một con vật. Thằng bé còm gầy yếu đuối và mặc bộ quần áo rách. Người ta cho nó ngồi phòng hạng nhì. Hành khách ai cũng nhìn nó, có người hỏi nó song nó không trả lời. Nó có vẻ căm ghét mọi người vì những sự khắc khổ và hành phạt đã làm cho nó oán hận và không có cảm tình. Tuy nhiên, có ba người hành khách đã khéo làm cho nó hé răng. Nó kể chuyện nó bằng tiếng Italia pha giọng Tây Ban Nha. Ba người khách kia không phải là dân Italia nhưng cũng thương nó, cho tiền để nó nói chuyện, nghe cho đỡ buồn. Đồng thời, có mấy thiếu phụ đi qua, ba ông quí khách hãnh diện ném thêm tiền xuống bàn loảng xoảng và nói: “Cầm lấy! Cầm lấy nữa này!”
Đứa bé sung sướng, vơ tiền bỏ túi, cảm ơn rồi vào phòng. Nó buông màn cửa xuống ngồi yên lặng và nghĩ đến những việc nó sẽ phải làm.
Nó nghĩ: với số tiền ấy, nó sẽ được ăn no, không phải thèm nhạt như trước. Khi tới Giênôva, nó sẽ sắm một bộ cánh mới để thay bộ quần áo nó đeo hai năm trời nay, rách như tổ đỉa. Nó lại định để ra một ít tiền đem về cho cha mẹ, chắc là được săn đón và quí hoá hơn là về tay không. Số tiền ấy đối với nó là một món tiền to. Ngồi sau rèm cửa, nó trừ đi tính lại và trong lòng thấy khoan khái nhẹ nhàng.
Lúc ấy, ba người khách nói trên đang ngồi ở buồng ăn, quây quần uống rượu và nói chuyện về những cuộc du lịch của mình cùng phong tục những nước đã đi qua. Tình cờ, câu chuyện nhằm vào nước Italia. Một người bắt đầu phàn nàn về khách sạn, người chê về xe lửa. Cuối cùng, rượu say, họ thi nhau nói xấu tất cả những gì thuộc về nước Italia. Người thứ nhất nói biết thế, họ sẽ di du lịch xứ Lappôn(4) (ở cực bắc châu Âu) còn hơn sang nước Italia. Người thứ nhì nói quả quyết rằng ở Italia hắn gặp toàn thị những phường quỷ quyệt và những quân cường đạo. Người thứ ba nói thêm rằng:
– Những người tùng sự nước Italia không biết chữ.
Người thứ nhất nói:
– Đó là một dân tộc ngu dốt!
Người thứ nhì tiếp:
– Bẩn thỉu!
– Và ăn…
Người thứ ba định nói câu “ăn cắp” nhưng chưa dứt lời thì một trận mưa toàn tiền vàng và bạc hắt vào mặt những người ấy rơi tung toé xuống bàn và trên sân. Ba người hầm hầm đứng dậy xem trận mưa dữ ấy ở đâu ra thì lại bị ném thêm.
Cậu bé thành Pađôva vén rèm thò đầu ra thét bằng giọng khinh bỉ:
– Cầm lại tiền của các người. Ta không thèm nhận của bố thí của những người kẻ đã lăng mạ nước ta.
––––––––––––––––––
(1) Padoue.
(2) Barcelone.
(3) Gênes.
(4) Laponie.